Còn hơn hai tháng nữa, tôi mới có dịp đến thuyết trình ở Ottawa nhưng Niagara thác đổ dường như đã ầm vang trong tâm tưởng. Niagara Canada khiến tôi bồi hồi nhớ lại Gougah của Đà Lạt năm xưa, tuy không hùng vĩ bằng, nhưng còn mang nguyên vẹn nét hoang sơ của núi rừng cao nguyên.
Niagara trong ký ức tôi, ngoài tiếng thác đổ, còn là bút ký của Chateaubriand. Năm 2009, Sébastien Baudoin soạn luận án tiến sĩ về ‘‘La poétique du paysage dans l’œuvre de Chateaubriand’’ nói nhiều về chất thơ trong văn Chateaubriand.
Đoạn văn ‘‘Dans les forêts du Nouveau-Monde’’ mở đầu bằng một ý tưởng chen lẫn giữa nhạc và thơ như sau : ‘‘Một đêm lạc bước trong khu rừng ngút ngàn, không xa thác Niagara ; tôi chợt thấy ánh chiêu dương tắt dần và cảm nhận trong nỗi cô liêu của núi rừng, cảnh trí tuyệt đẹp một đêm nơi miền hoang dã của Tân Thế Giới.’’
Trong đoạn cuối, tác giả chuyển hóa bút ký thành một tấu khúc tuyệt vời : ‘‘Auprès, tout était silence et repos, hors la chute de quelques feuilles, le passage brusque d’un vent subit, les gémissements rares et interrompus de la hulotte ; mais au loin, par intervalles, on entendait les roulements solennels de la cataracte de Niagara qui, dans le calme de la nuit, se prolongeaient de désert en désert, et expiraient à travers les forêts solitaires.’’
Chateaubriand sử dụng bảy nốt nhạc trong thang âm, nốt rê lưu lạc gặp lại nốt rê cố cựu (gamme dorienne). Nào ta hãy cùng nghe khúc nhạc dồn của tiếng thác Niagara, qua ngòi bút Chateaubriand :
‘‘(enten)dait, (prolon)geaient, (dé)sert, (dé)sert, (expi)raient, (tra)vers, (soli)taires.’’
Đó chính là tiếng thác đổ ngoài thiên nhiên và trong trong ngôn ngữ : ý tại ngôn ngoại (意在言外).
Về ngôn từ, Chateaubriand viết ‘‘cataracte’’ thay vì ‘‘chute’’. Cataracte, gốc hy lạp, ghép lại hai chữ ‘‘kata’’ (bên dưới) và ‘‘rasso’’ (vỡ tan), vẽ nên một bức tranh nhân sinh. Ngọn nước từ lưng trời, đổ xuống thế nhân, vỡ tan thành bụi mờ trắng xóa.
Tác giả dùng thì ‘‘imparfait’’, gốc tiếng latin, có nghĩa là dang dở. Cách dụng ngữ tượng thanh, là tiếng thác đổ tiếp nối chập chùng, giống như khúc đàn dang dở : ‘‘Symphonie inachevée’’.
Đoạn văn của Chateaubriand rất khó dịch, tôi mạo muội chuyển ngữ với 7 chữ vần trắc : ắt, thể hiện bảy nốt nhạc trong nguyên bản tiếng Pháp.
‘‘Quanh đây hoàn toàn tĩnh lặng, ngoài vài chiếc lá rơi xào xạc, một cơn gió thoảng qua, tiếng chim rừng nức nở. Ngoài chốn xa, tiếng thác Niagara từng chặp đổ xuống hùng vĩ, trong đêm khuya vắng ngắt, nỗi se sắt chạy dài trong hoang vắng triền miên, chìm lắng giữa núi rừng vắng lặng.’’
Ý thơ của Chateaubriand hóa thân vào vần thơ Việt :
Từ trời thác đổ xuống sườn non
Quạnh quẽ duyên trao phận mỏi mòn
Tháng đợi năm chờ sầu lặng lẽ
Duyên kiếp lỡ làng nước cuốn tuôn.
Rừng cây bát ngát quanh triền đá
Lẳng lặng mà nghe thác đổ dồn
Biếng nhác chim rừng buồn chẳng hót
Mây bay gió cuốn tựa cung đàn !