Sương mù bàng bạc ùn lên lãng đãng trộn lẫn với ngàn mây trắng bao la, hòa quyện cùng hương rừng gió núi, chập chùng trên tuyệt đỉnh Hy Mã Lạp Sơn, chờn vờn ngất tạnh bay quanh pháp hội Linh Sơn vào một thời xa xưa, cách đây mấy nghìn năm rồi mà tưởng chừng như mới hôm nào, vẫn còn nghe văng vẳng những lời thơ bất hủ của Thế Tôn vang vọng trầm hùng :
Hữu vi pháp hiện trùng trùng
Như huyễn như bọt nước tung vỡ rồi
Như ánh chớp như sương rơi
Thường quán như vậy nhẹ vời phiêu nhiên
Tất cả vạn pháp trong vũ trụ như nhật nguyệt, rừng núi, biển sông, con người… đều như huyễn mộng bọt nước, như chớp lóe sương rơi. Hãy quán tưởng thường xuyên như vậy. Một khi thấy rõ tận tường như thế là thể nhập tự tánh Không của vạn hữu để xa lìa mọi cố chấp tham đắm, bám víu dựa nương :
Nương âm thanh sắc tướng
Để cầu thấy Phật Đà
Kẻ ấy hành tà đạo
Chẳng bao giờ thấy ta
Qua sắc tướng, âm thanh để chiêm ngưỡng nhìn ngắm, cầu nguyện tôn thờ Đức Phật thì kẻ đó chẳng bao giờ hiểu Phật, thấy được Phật, vì đã vô tình lạc vào chốn đạo tà ma quỷ sứ mất rồi, rơi xuống nẻo hướng ngoại tầm cầu, vọng tưởng mơ hồ huyễn hoặc đâu đâu. Chính Đức Phật đã nhắc nhở chúng ta một cách khẩn thiết như thế, bằng những lời thơ súc tích tịch lặng mà sấm sét như trời long đất lở, vang dội cực kỳ làm vỡ bùng mê ám cho tâm thức bừng dậy thấy suốt muôn nơi. Rồi trên pháp hội Hoa Nghiêm điệp trùng hùng vĩ núi rừng cao xanh vách đá, vào một sớm tinh sương mùa hạ, Thế Tôn lại mỉm cười đọc mấy lời thơ mở bày sáng tỏ :
Nếu người muốn biết rõ
Chư Phật khắp ba đời
Hãy quán pháp giới tánh
Đều do tâm tạo thôi
Ơi chao ! Hết thảy mọi cảnh giới Phật ma, thánh phàm, thiện ác, khổ vui… chỉ một bài thơ này là bao gồmđầy đủ toàn diện rồi. Pháp giới trùng trùng vô tận, nhưng tựu trung cũng đều luân lưu trong mười pháp giới : Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, Trời, Người, A tu la, Ngạ quỷ, Súc sanh, Địa ngục, vốn chẳng có tự thể, chẳng có tự tánh. Tất cả đều do một tâm niệm của mình tạo ra mà thôi.
Nói đến cái tâm của chúng ta cũng như hư không chẳng ngằn mé, vốn là thanh tịnh trong sáng, chẳng có hình dạng, chẳng có nơi chốn, vốn là bất sanh bất diệt, bất động bất biến. Tuy bất biến mà cũng tùy duyên, vì tùy duyên mà sinh động, linh hoạt và sáng tạo vô cùng. Thong dong trên cung cách khoan hòa độ lượng, Thế Tôn ôn tồn tiếp tục đọc thơ khai thị vi diệu nghĩa tuyệt trần :
Nếu người muốn biết cảnh giới Phật
Ý căn thanh tịnh như hư không
Xa lìa vọng tưởng và chấp thủ
Thì tâm vô ngại giữa trần hồng
Cảnh giới Phật là gì ? Đó là cảnh giới bất khả tư nghì, không thể lý giải chi được, trừ khi mình chứng ngộ. Tuy nhiên cũng có thể hiểu và thấy ra thật tướng của muôn vạn pháp là tánh Không, vốn không sinh cũng không diệt, chẳng đến cũng chẳng đi, thấy một là tất cả, tất cả là một, thấy vui buồn, sướng khổ, được mất, hơn thua, có không, sống chết… đều vô ngại, tự tại thì đấy chính là cảnh giới Phật vậy. Do đó, cảnh giớiPhật luôn luôn hiện hữu ở đây và bây giờ giữa thực tại hiện tiền. Sở dĩ mình chẳng thấy, vì ý căn chưa được thanh tịnh, suốt ngày cứ dấy khởi đủ thứ điên đảo, vọng tưởng mãi thì làm sao thấy được phải không ?
Vậy thì, muốn thấy cảnh giới Phật, chúng ta chỉ cần chuyển hóa các thứ vọng tưởng, điên đảo, vô minhchấp trước ấy, xoay trở về thể tánh tự nhiên, khiến cho mọi ý căn đều thanh tịnh như hư không. Lúc đó tuệ nhãn tự nhiên bừng chiếu, liền thấy vũ trụ là cảnh giới Phật, trời đất là cảnh giới Phật, núi rừng biển cả, sông suối bụi cát, mưa nắng gió mây, cỏ hoa người vật… không nơi nào là chẳng phải cảnh giới Phật. Tất cả sơn hà đại địa, vạn pháp trùng trùng… đều là đạo tràng thanh tịnh, nếu tâm mình thanh tịnh Nhất Như.
Trên tinh thần giải thoát siêu việt đó, kỳ diệu thay, tiếng thơ đại hùng, đại lực, đại từ bi của Thế Tôn đã mở ra những phương trời cao rộng mông mênh hoằng viễn. Kể từ đó, nguôn thơ thiền bắt đầu phát sinh mãnh liệt dữ dội, trôi chảy tuôn trào bất tuyệt, miên man quá cùng bát ngát giữa thiên thu vạn đại rạt rào. Vào đầu thế kỷ thứ I, ở xứ sở u huyền Ấn Độ xuất hiện thiền sư Mã Minh với tập thơ Phật Sở Hành Tán dài hơn 9000 câu thơ ngũ ngôn, tán thán ca ngợi cuộc đời và tư tưởng Đức Phật. Bản trường ca kết thúc bằng mấy vần thơ trong sáng :
Tán thán đức Thế Tôn
Suốt cuộc đời hành đạo
Để chuyển hóa chúng sinh
Được an lành giải thoát
Giải thoát là hương vị tuyệt vời của nguồn thơ thiền, cứ mãi mãi quyện hòa trong không khí, thoảng ngát chan chứa giữa lòng người khắp mọi miền chốn cõi nơi nơi, qua các thiền viện am cốc, đô thành thị tứ, sơn dã làng quê. Hương vị giải thoát ấy thấm sâu vào trái tim nhân loại, làm tan đi xiết bao phiền não khổ đau, xiết bao những đục ngầu, u minh mịt mùng tăm tối.
Nối tiếp mạch nguồn giải thoát đó, đến gần cuối thế kỷ thứ VI ở Trung Hoa, thiền sư Huyền Giác ( 665 – 713 ) từ nơi thảo am hoang vắng tịch liêu, cạnh bên dòng sông xanh quạnh quẽ cô tịch, bỗng cất lên tiếng hát động trời Chứng Đạo Ca hùng tráng, vang ầm, rung chuyển, rền ngân trên cung bậc tối thượng thừa. Thi phẩm Chứng Đạo Ca dài 266 câu thơ thất ngôn, tuy ra đời cách đây hơn 15 thế kỷ nhưng thần lực của thơ vẫn còn tinh khôi mới mẻ, rực ngời ngọn lửa thiêng trong tim hồn rưc rỡ, mở đầu bằng mấy câu thơ nhảy tung vào đốn ngộ bản thể tự thân :
Dứt học vô vi ấy đạo nhân
Không trừ vọng tưởng chẳng cầu chân ?
Tánh thưc vô minh tức Phật tánh
Thân không ảo hóa tức Pháp thân
Pháp thân giác rồi không một vật
Vốn nguồn tự tánh thiên chân Phật
Năm ấm ảo hư mây lại qua
Ba độc huyễn hoặc bọt còn mất*
Tuyệt đối chẳng còn chi phải học nữa, bậc liễu đạt là người hoàn toàn vô sự, nhàn nhã, vượt qua thế giớinhị nguyên, hết còn phân biệt chân vọng, bởi thấu hiểu vọng chân đều huyễn hóa. Chẳng nhọc lòng tiêu diệtvọng tưởng hay truy tìm chân lý, chân tâm gì thêm. Tâm thể vốn hiện hữu sờ sờ, đang tỏa chiếu hào quangsáng rực ngời ra đó từ muôn thuở, muôn nơi rồi. Mê thì không thấy, ngộ thì hoát nhiên thấy ngay trước mắtrõ ràng. Ngộ rồi mới thông suốt lẽ “Tánh thật vô minh tức Phật tánh. Thân không ảo hóa tức Pháp thân.” Thật ra cũng dễ hiểu, bởi vô minh chỉ là một khái niệm không có tánh riêng biệt nào cả mà chỉ do mình bỏ quên, chẳng biết có Phật tánh, nên tạm gọi là vô minh thế thôi.
Khi tuệ giác quán chiếu bùng vỡ, lập tức tánh Phật hiển lộ huy hoàng thì vô minh tan mất. Cũng vậy, thân huyễn hóa và Pháp thân chẳng đối lập gì nhau mà vốn là bất nhị, Pháp thân ở ngay trong thân ảo hóa này, chứ tuyệt nhiên chẳng ở một nơi chốn nào khác tận ngoài xa kia. Thiền sư liễu ngộ Pháp thân Phật tánh, nhìn đâu cũng thấy không có một vật nào chướng ngại, nên thõng tay vào chợ, tùy duyên hóa độ chúng sinh, chỉ rõ cho họ biết năm ấm ( sắc, thọ, tưởng, hành, thức ) ba độc ( tham, sân, si ) như ảo ảnh, huyễn mộng, như bọt nước mong manh chẳng thật.
Đừng lầm chấp thật mà sinh tâm dính mắc, ham muốn rồi tranh giành, chiếm hữu, đưa đến căm thù, nhẫn tâm tàn sát lẫn nhau, gây bao đổ nát tang thương, sầu hận chất chồng, tạo nghiệp mãi trong vòng sinh tử luân hồi. Rỗng rang buông xả, thư thả hòa chung nhịp bước, viên dung đôi bờ sống chết, có không, mộng thực… giữa chốn miền thanh thản, tự do đó, có biết bao đạo sư, hiền nhân, ẩn sĩ, đại trượng phu lẫm liệt đi về hòa tấu khúc Chứng Đạo Ca.
Làm sao kể hết được những tâm hồn thượng đẳng, hoằng đại ấy, những con người siêu việt đã khơi dậy sự sống nhiệm mầu, thưởng thức niềm hân hoan tối thượng của cuộc sống toàn diện như đại sư kỳ vĩ Milarepa ( 1052 – 1135 ) ca hát vang lừng những bài thơ phát khởi từ một trí tuệ nhìn thấu suốt ba nghìn thế giới. Tiếng hát, lời ngâm trầm hùng như sư tử trên các triền núi cao nguyên bạt ngàn Tây Tạng, tiếp giáp với mây trời vần vũ thiên thu. Những bài thơ xuất thần bay bổng, lồng lộng tràn đầy ánh sáng quang minh rạng chiếu ngời ngời :
Nhất quyết xa lìa ngã tướng là vui
Từ bỏ lòng yêu quê hương, xứ sở là vui
Thoát khỏi luật lệ làng xóm là vui
Chẳng làm kẻ cắp của cải tầm thường là vui
Không có lý do để tham đắm là vui
Có nhiều hiểu biết phong phú tinh thần là vui
Không phải khốn khổ vì kiếm ăn là vui
Cứ an nhiên tự tại, chẳng lo bị mất mát gì cả là vui
Chẳng lo bị suy đồi, trụy lạc là vui
Có tín tâm thâm hậu, sâu xa là vui
Vô ngại đối với tư lợi của kẻ bố thí là vui
Giúp đỡ nhiệt tình, không chán nản là vui
Không sống lừa đảo, giả trá là vui
Thể hiện tín tâm bằng mọi hành vi là vui
Thích du hành chẳng mệt mỏi là vui
Không sợ chết thình lình là vui
Chẳng lo lắng bị cướp giật là vui
Thấy tinh tấn trên đường đạo là vui
Tránh hành động độc ác, xấu xa là vui
Cần mẫn hiếu thảo, thuận hòa là vui
Vắng lặng tánh tham lam, sân hận là vui
Chẳng kiêu ngạo, ganh ghét, tỵ hiềm là vui
Thoát khỏi hy vọng và sợ hãi là vui
Làm chủ điều động tâm thức, ý thức là vui
Và giải thoát sinh tử là niềm vui hân hoan, cực lạc Niết bàn**
Bản hoan ca nhập cuộc siêu thoát, đại hòa điệu chơi với cõi ta bà, hòa âm thấm thía nguồn vui lai láng, tràn ngập trong thi phẩm Gởi Lại Trần Gian của Milarepa vẫn còn mãi đồng vọng giữa lòng nhân thế xưa nay.
Không thể nghĩ bàn là tiếng thơ của một con người sống trên mặt đất. Giữa thiên thanh vĩnh thúy, tiếng thơ ấy tự bao giờ đã bay lên đồng vọng mông mênh trên cung bậc hùng tráng như tiếng hát đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, phát xuất từ một tuệ giác siêu phàm nhập thánh khác, cũng của Phật giáo Mật tông Tây Tạng, đại sư Langri Thangpa Dorje Senge qua Tám Đoạn Thi Kệ Chuyển Hóa Tâm Thức. Một bài thơ linh diệu được truyền tụng khắp vùng lục địa Châu Á, được chính đức Đạt Lai Lạt Ma và tất cả mọi thánh triết, hiền nhântrên thế giới đều học thuộc lòng và thường xuyên miên mật áp dụng thực hiện. Nguyên tác tiếng Tây Tạng, nhan đề Blo-Sbyong Tsig-Brgyad-Ma do Phạm Công Thiện chuyển dịch sang Việt ngữ :
I
Quyết tâm thành tựu
Sự hạnh phúc rộng lớn nhất cho tất cả sinh vật
Điều này còn hơn cả viên ngọc như ý
Tôi nguyện sẽ thường xuyên, liên tục thương yêu, quý mến hết thảy mọi chúng sinh
II
Khi chung đụng với người khác
Tôi tự xem mình như là kẻ thấp hèn nhất trong mọi người
Và trong tận đáy lòng sâu thẳm của tôi
Luôn luôn trân trọng, kính quý những kẻ khác, coi họ như tối thượng
III
Quán chiếu, xem xét sự lưu chuyển liên tục của tâm thức tôi trong tất cả mọi cử chỉ, hành động
Nếu một lúc nào đó, có nỗi ưu sầu, đau đớn nào đột nhiên phát khởi dậy
Gây tai hại cho chính tôi và cho những kẻ khác
Tỉnh thức đối mặt, nhìn thẳng vào nỗi phiền não ấy, tôi liền chuyển hóa, làm tan biến nó đi
IV
Khi chạm mặt với một người có tâm địa ác độc
Với người ngu si bị sai khiến, điều động bởi những điều nham hiểm, gian trá và bởi nhiều sự tàn bạo, điên rồ
Tôi vẫn quý thương, ngưỡng mộ người ấy, người thực khó thấy
Giống như mình bắt gặp một kho tàng trân châu vô cùng quý báu
V
Khi những kẻ khác vì ghen ghét, đố kỵ
Đối đãi tôi tệ bạc, sỉ nhục, lăng mạ, chửi rủa tôi đủ điều tàn nhẫn
Tôi cũng hoan hỷ chấp nhận những tiếng lời nặng nề, ghê gớm của họ
Và nhường cho họ hoàn toàn sự đắc thắng
VI
Khi có một người mà tôi giúp đỡ tận tình
Tôi đặt hết niềm hy vọng lớn lao vào người ấy
Nhưng rồi, chính người ấy lại giáng xuống đầu tôi bao nhiêu tai họa khủng khiếp
Tôi cũng xem người ấy như một người bạn tâm linh cao tột, như một bậc thầy, một thiện tri thức đúng nghĩa của tôi
VII
Nói gọn lại, tôi xin hiến dâng, trao tặng lợi ích tốt lành, hạnh phúc trọn vẹn cho hết thảy những người mẹ, mọi mọi mẫu thân
Trong cuộc đời này và trong cả sự luân lưu, tiếp diễn miên trường, vạn đại mai sau
Và một cách kín đáo, tôi xin chịu nhận lãnh cho bản thân
Tất cả những tai nạn, khốn khổ, lao đao của tất cả những người mẹ tôi
VIII
Hơn nữa, vì không nhiễm dính vào tám cơn gió loạn của thế gian như được và mất, khen và chê, sướng và khổ, danh thơm và tiếng xấu
Bởi nhìn thấy rõ ràng, tường tận tất cả những hiện tượng trong vũ trụ, nhân sinh đều là huyễn hóa, huyễn hoặc
Tôi liền thoát khỏi sự chấp trước, bám viu và được giải phóng, giải thoát khỏi mọi sự nô lệ, buộc ràng của thế gian***
Chuyển Hóa Tâm Thức là một bài thơ kỳ vĩ, bất khả tư nghì, do đạo sư Langri Thangpa Dorje Senge ngâm nga vang lừng trên những dãy núi cao nguyên, tuyệt mù tuyết phủ Hy Mã Lạp Sơn, rờn lạnh. Tiếng thơ ngân rền vang dội ầm ầm sấm sét, vọng xuyên qua đèo cao lũng thấp, chập chùng xuống vùng châu thổ, phố thị, làng mạc, bình nguyên…
Tiếng thơ thần diệu, vô tiền khoáng hậu đã âm thầm chuyển hóa tâm hồn tột độ, rốt cùng, toàn diện, thể hiện một tâm đạo Bồ đề tâm tối thượng thừa bao la hoằng viễn, vô lượng vô biên. Huyền đồng cùng tự tánhthanh tịnh, nhất như bình đẳng, độc đáo vô song. Bồ đề tâm thâm hậu như Phạm Công Thiện diễn đạt tuyệt hảo : “Bồ đề tâm trong nghĩa phi thường tuyệt đối là chứng nhập, liễu tri vô tự tính của tất cả mọi sự, tức là Không Tính. Nghĩa là Đại Trí xuyên thấu đại mộng, xuyên vào tất cả những huyễn hóa giả hiện của tất cả những gì xảy ra trong nội tâm, trong vũ trụ và cả ngoài vũ trụ bao la vô hạn.”***
Trăng ngàn mây nước chảy tuôn nguồn mạch suối thiền qua nhiều sa mạc hoang vu, len lỏi quanh co, gập ghềnh khúc khuỷu, chịu đựng tuyết băng thử thách, lách mình qua nhiều trắc trở gai chông… Dòng thiền vi diệu, trong trẻo thanh lương đã vượt qua bao rừng núi mịt mù sương phủ, rồi đổ xuống vùng bờ biển xanh biếc Việt Nam, tựu thành một nhánh Thiền Trúc Lâm Yên Tử từ cuối thế kỷ XII kéo dài mãi tận đến bây giờ. Sơ Tổ Trúc Lâm Điều Ngự Giác Hoàng ( 1258 – 1308 ) trước kia là vua Trần Nhân Tông, năm 40 tuổi ( 1298 ) nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông và phát tâm đại nguyện xuất gia, quyết chí lên đỉnh núi rừng thiêng Yên Tử học đạo với các bậc thầy thâm hậu.
Tuyệt diệu làm sao ! Đấng quân vương thượng đẳng, lặng lẽ trút bỏ ngai vàng, điện ngọc lên đường, thực hiện một bước đi phi thường, chọn am mây nhập thất, dụng công quyết liệt, hành trì miên mật và đã trở thành một vị thiền sư uyên áo với khúc hát Cư Trần Lạc Đạo an nhiên :
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Hễ đói thì ăn mệt nghỉ liền
Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền
Chỉ cần 4 câu thơ thôi, đủ nêu bật yếu chỉ của Thiền tông. Sống giữa đời bằng thái độ vô tư, vô chấp, cứ tùy hỷ, tùy duyên thì mọi việc đều rỗng rang trôi chảy. Tự tri, tự biết trong tâm mình vốn sẵn đủ trí tuệ rồi, nên không còn chạy kiếm tìm chi nữa. Bản tâm này là kho tàng châu báu vô lượng, dùng hoài chẳng bao giờ hết. Vậy hãy quay về mở cửa lòng ra mà tha hồ sử dụng. Cứ ung dung với nụ cười tỉnh thức, trong lòng không nhiễm vướng, trước muôn sự việc xảy ra thì cần chi phải khổ nhọc hỏi thiền, vấn đạo làm gì thêm hao hơi tổn sức ?
Phải chăng, đó là cái thấy thấu thị của Sơ Tổ Trúc Lâm cũng như của Tuệ Trung Thượng Sỹ ? ( 1230 – 1291 ) Một bậc kỳ nhân dị thường làm dậy sóng nguồn thiền ầm vang lên tận đỉnh ngàn cao xanh lồng lộng của tâm linh. Chính vua Trần Nhân Tông lúc còn niên thiếu đã được Tuệ Trung Thượng Sỹ dạy dỗ giáo dục. Hôm từ giã thầy trở về hoàng cung, ngài hỏi : “Yếu chỉ Thiền tông là gì ?” Tuệ Trung Thượng Sỹ trả lời : “Hãy nhìn trở lại nơi mình là phần sự gốc, chứ không phải từ bên ngoài mà được.”
Đúng vậy, đấy là tự tri tự giác, tự mình trực nhận, đốn ngộ, kiến tánh ngay nơi đương xứ tức chân, chứ tuyệt nhiên không nên hướng ngoại tầm cầu ở đâu đâu bên ngoài, tận chốn nào xa lơ xa lắc. “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi.” Đức Phật đã nói như thế. Hãy hùng tâm tráng khí, tự tin, quyết chí thì mới có cơ may nhận diện được cái mặt mũi xưa nay của chính mình, như thiền sư Quảng Nghiêm ( 1122 – 1190 ) từng khích lệ : “Làm trai dốc chí xông trời đất. Chớ dẫm Như Lai bước đã qua.”
Hòa nhịp cung cầm như thế, Tuệ Trung Thượng Sỹ đi về thế giới ta bà, rong chơi nhàn hạ vì đã khám phára kho tàng ngọc quý ở ngay trong lòng mình rồi. Cầm cây tuệ kiếm Kim Cang ngoạn du thỏa thích, tung hoành ngang dọc khắp nơi, mọi chốn như chỗ không người. Vung gươm tuệ chém đứt những sự phân biệtcủa đối đãi như có không, sống chết, đến đi, giàu nghèo, được mất, hơn thua, đúng sai, phải trái, chê khen, ghét thương, sướng khổ, thiện ác, trí ngu… Đưa con người trở về với cái đang là, đưa muôn vật trở vềNhư. Một khi đã mở được kho báu, đẩy cửa vào thực tại hiện tiền, triệt ngộ tự tánh thanh tịnh vô vi, Tuệ Trung Thượng Sỹ phiêu bồng, thõng tay vào chợ rong chơi, thể hiện cái thần khí đặc thù ấy là bài thơ Phóng Cuồng Ca xuất thần bát ngát :
Trời đất liếc trông hề sao thênh thang
Chống gậy chơi rong hề phương ngoài phương
Hoặc cao cao hề mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu hề nước trùng dương
Đói thì ăn hề cơm mười phương góp
Mệt thì ngủ hề nơi chẳng quê hương
Hứng lên hề thổi sáo không lỗ
Lắng xuống hề đốt giải thoát hương
Mỏi nghỉ chút hề đất hoan hỷ
Khát uống no hề tiêu dao thang
Quy Sơn láng giềng hề chăn con trâu đất
Tạ Tam chung thuyền hề trỗi khúc Thương lang
Thăm Tào Khê hề ra mắt Lư Thị
Viếng Thạch Đầu hề sánh vế lão Bàng
Vui ta vui hề Bố Đại vui sướng
Điên ta điên hề Phổ Hóa điên gàn
Chà chà bóng ngày hề qua khe cửa
Ối ối mây nổi hề mộng giàu sang
Chịu sao hề thói đời ấm lạnh
Đi chi hề gai góc đường quan
Sâu thì nhón gót hề cạn thì dấn bước
Dùng thì phô ra hề bỏ thì ẩn tàng
Buông bốn đại hề đừng nắm bắt
Tỉnh một đời hề thôi chạy quàng
Thỏa nguyện ta hề rỗng rang tĩnh lặng
Sống chết bức nhau hề ta vẫn như thường****
Phóng Cuồng Ca đích thực là bản tiêu dao ca quá cùng thâm thúy. Tiếng hát ấy bay lên từ trái tim rực ngời pháp khí, siêu quần bạt tụy, là điệu thở phiêu nhiên thoát tục giữa bình sinh cuộc sống đời thường. Phóng Cuồng Ca là một thái độ tự khiêm hạ mà cũng biểu lộ tính chất tự tại của một tâm hồn thượng đạt, thấu triệtlẽ tử sinh, là khúc hát ngông nghênh xiêu quàng, nghêu ngao chuếnh choáng, thoát khỏi mọi ràng buộc hạn hẹp nhỏ bé của thế gian, bằng điệu cười hào sảng phóng khoáng, đại quang minh.
Tinh thần giải thoát trác việt của Thiền tông là nguồn cảm hứng thâm trầm, bay dậy khắp muôn phương, thấm nhuần toàn thể thế giới hoàn cầu nói chung và đại lục Châu Á nói riêng, thiền như cánh bướm trắng băng qua đại dương đến tận miền viễn đông xứ hoa Anh Đào Nhật Bản, kết tinh thành thơ haiku, thể hiệntài tình một cách hàm súc, độc đáo qua những bài thơ cô đọng của Basho ( 1644 – 1694 ) một thiền sư thi sĩ phiêu bồng suốt trọn một đời phiêu lãng, rong ruổi dưới trời xanh :
Một lữ khách
Tên tôi là như thế
Giữ nhân gian này
Trần gian là quán trọ cho khách lữ ghé qua, là cõi tạm dừng chân cho thi sĩ nghỉ ngơi, thưởng thức những vẻ đẹp phù du như kiệt tác Con Đường Sâu Thẳm của Basho, hướng về uyên nguyên vĩnh cửu, phơi phới trời mây :
Trên con đường này
Giữa chiều thu nọ
Ai về chẳng hay
Phải chăng, đó là trạng thái vô tâm trước những sự kiện hiển bày ? Có một lần vân du qua rặng núi Phú Sĩ đầy tuyết trắng, Basho ghé trọ một lữ quán, bất ngờ gặp các kỹ nữ đang ngủ say giấc nồng, thi nhân chạnh lòng cảm thương :
Quán bên đường
Các kỹ nữ nằm ngủ
Trăng và đinh hương
Ta bà cảnh giới thành Tịnh độ là như thế, mắt biếc thiền sư nhìn thấy mà không nhiễm dính chẳng mắc vướng, vẫn thong dong tự do tự tại. Cõi thơ Basho bàng bạc trăng sương, ngạt ngào hoa cỏ, lãng đãng gió mây và chập chờn chim bướm lượn vờn quanh gót du hành trên cuộc lữ thi ca :
Ôi đóa nazuna
Chú tâm nhìn thật kỹ
Bên giậu rào trổ hoa
Mỏi gót lang thang
Quán trọ nào ghé lại
Gặp hoa tử đằng
Giữa cuộc đăng trình
Chỉ còn mộng tôi phiêu phưỡng
Trên cánh đồng hoang*****
Nhẹ nhàng giản dị, những bài thơ tuy ngắn gọn đơn sơ mà vô cùng chơn mỹ, đẹp như những cụm mây trời trong nắng sớm tinh sương hay chiều thu mưa giữa biển đồi xanh lấp loáng, phản ánh nếp sống thiền Nhật Bản. Đối với họ, cuộc sống thường nhật là đạo, bất cứ phương diện nào của cuộc sống như uống trà, cắm hoa, võ thuật, viết chữ, ngao du… đều là đạo là thiền, là thơ là nhạc hết thảy.
Khởi mạch nguồn thơ thiền bắt đầu từ thời Thế Tôn khơi mở trên tuyệt đỉnh Linh Sơn chập chờn phù vânẤn Độ. Trào tuôn ngút ngàn qua mấy dải sa mac mênh mông vào lục địa Trung Hoa chập chùng sông núi. Trùng trùng điệp điệp chất ngất chợt bừng sáng, dâng lên bềnh bồng sương khói trời mây Tây Tạng xa vời, rồi mênh mang tràn xuống muôn trùng rừng biển Việt Nam đến tuyệt cùng bao la xanh ngần Nhật Bản…Bát ngát mở ra không bờ bến, trên cuộc về vô tận, vô sở trú của các thiền sư thi sĩ dị thường giữa trời thơ đất mộng phiêu bồng thi ca.
Tâm Nhiên
* Huyền Giác. Chứng Đạo Ca. Trúc Thiên dịch. Lá Bối xuất bản, Sài Gòn 1970
** Milarepa. Gởi Lại Trần Gian. Đỗ Đình Đồng dịch. Hiện Đại xuất bản, Sài Gòn 1970
*** Phạm Công Thiện. Nét Đẹp Tinh Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo. Thành Phố HCM xuất bản 2002.
**** Tuệ Trung Thượng Sỹ Ngữ Lục. Lý Việt Dũng dịch giải. Mũi Cà Mau xuất bản 2003
***** Nhật Chiêu. Basho Và Thơ Haiku. Văn Học xuất bản 1994