Mùa thu đã về trên Eugene, lúc nào tôi không hay. Chừng thấy màu trời buồn bã, chùng xuống theo những cơn mưa nhỏ chợt đến chợt bay, qua những lối mòn vắng vẻ, và những con đường sâu hun hút ngập xác lá, giữa hai hàng cây vàng đỏ đứng im lìm trong gió, tôi mới thầm gọi, mùa thu đây rồi. Mùa thu của Eugene đấy. Và của tôi nữa. Ở đây, mùa thu không có rặng liễu đìu hiu và áo mơ phai, hay ít nhiều thiếu nữ buồn không nói của Xuân Diệu và dòng thơ lãng mạn tiền chiến. Không có khóm trúc tuôn rơi dòng lệ cũ của Ðỗ Phủ (Thu hứng). Không có tiếng vĩ cầm nức nở, les sanglots longs / des violons, của Verlaine.Không có con nai vàng ngơ ngác trong thơ Lưu Trọng Lư hay trên tranh lụa Castiglione (Autumn Cries on the Artemesia Plain). Không có mùi thời gian cọng thạch thảo, odeur du temps brin de bruyère, như trong L’adieu của Apollinaire. Mà chỉ thấy vương vất đâu đây hồn thu Nguyễn Du man mác điệu buồn vô tận trên rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Úa vàng, như màu của biệt ly, của cách xa muôn trùng, của bao trăng thề đã vỡ. Màu của mùa thu Eugene.
Một hôm, vào giữa mùa thu 1988, John gọi tôi đang ở Eugene, một thành phố nhỏ, nhà quê, cách Portland hai giờ lái xe, và hỏi: “Cuối tuần này bạn có thể lên Portland, gặp tôi có chút việc được không?”. Tôi cười, dễ dãi: “Dĩ nhiên là được. Tôi cũng cần lên đó thăm bạn John, ăn cơm Việt Nam và thấy mặt vài đồng hương, mà tôi thiếu vắng. Ở Eugene không có bóng một người Việt, riết rồi quên mất mình là ai, chán lắm. Bạn cũng biết, tôi tự do hơn gió mà. Gió còn vướng mắc đường mây và những ngọn núi tuyết. Chứ còn tôi thì… Được rồi, mình sẽ gặp nhau, tại đâu?”
John là người bạn rất thân, dễ thương, cùng lớp MAT (MA in Teaching) tại Portland State University, ba năm trước đó (1985). Anh chuyên trị Anh ngữ, còn tôi Pháp văn. Anh gốc Mỹ trắng Caucasian 100%, nhưng so với người Mỹ trung bình, anh thuộc loại gầy thấp, có khi chiều cao còn thua tôi, một An Nam Mít thứ thiệt, cho nên lần nào vào cafeteria anh cũng rảo mắt tìm tôi, để kiếm bạn nhậu… cà-phê. Anh kể, trước kia, vì mê một em người Tàu chân dài rất đẹp ở Thượng Hải, anh học thêm tiếng Tàu. Anh bảo lãnh em sang Mỹ, mang vô trường giới thiệu với tôi, rồi ở với nhau được vài tháng, em thấy chán anh, ôm cầm sang thuyền của một anh Tàu Bắc Kinh khá già, nhưng giàu sụ, chủ một tiệm ăn lớn ở Chinatown Portland, khiến anh thất tình, bỏ học, đi tu làm mục sư một thời gian, trở qua Thượng Hải giảng đạo và tìm kỷ niệm. Về lại Mỹ, nghe ai xúi dại, ghi tên học môn Social Work, và sau đó làm việc tại Mental Health Clinic của Đại Học Y khoa Oregon (OHSU), tục gọi là Nhà Thương Núi. Còn tôi xuống University of Oregon, Eugene, dạy Pháp văn kiếm sống, đồng thời soạn luận án Ph.D về Romance Languages (French and Latin).
Sau vài hớp rượu đỏ, tại một quán Mỹ, chưa đủ mềm môi, và những câu hỏi han về sức khỏe, và “Eugene có gì lạ không bạn?”, John đi ngay vào đề:
– Bệnh viện Tâm Thần cần một người thông thạo Pháp ngữ cho một nữ bệnh nhân. Cô là case của tôi, người Cam Bốt, đến từ trại tỵ nạn Bataan bên Philippines. Chỉ nói tiếng Pháp. Ở đây, thông dịch người Cam Bốt rất nhiều, nhưng cô ta không chịu nói tiếng mẹ đẻ, thế mới kỳ và mệt cho chúng tôi. Tôi nghĩ và phải nhờ đến bạn, là người tôi thấy rất ư lý tưởng cho công việc này: vừa nói tiếng Pháp thuần thục vừa trải qua những chặng đời khổ ải nhất như một tù binh và một thuyền nhân, nên dễ thông cảm những người bất hạnh. Thêm nữa: tôi biết bạn có thời gian làm việc ở Phnom-Penh. Perfect. Có lương thông dịch on call, ngoài giờ. Tôi biết trong tuần bạn bận lắm, cho nên chỉ xếp bạn làm vào hai ngày thứ bảy và Chúa nhật, kiếm thêm tí tiền còm, tuy ít nhưng cũng đỡ hơn đi hái dâu mùa hè. Để tôi xin bệnh viện bao ăn và cấp cho một chỗ ngả lưng trong hai ngày đó. Chịu không?
Rồi bỗng John hỏi:
– À, mà bạn có biết, hoặc nghe nói, gì về bệnh tâm thần?
– Ở trại tỵ nạn Bataan, tôi đã tham dự khóa học 15 tuần về Community Mental Health and Family Services, được cấp bằng và thư giới thiệu. Học, nhưng không bao giờ hành, để lâu “lụt nghề” rồi.
John cười, khoan khoái:
– Tốt. Bây giờ chịu làm chứ?
Tại sao không? Độc thân dễ tính, ăn cơm hàng cháo chợ kinh niên, ở phòng thuê, quanh năm suốt tháng ngủ sofa, tự nhiên có nơi tá túc cho mỗi cuối tuần, dại gì không chịu. Lý do nữa: tôi thầm mong đây là Soriya, cô bạn trẻ đẹp người Cam Bốt, quê Battambang, thư ký đánh máy của tòa đại sứ VNCH tại Phnom-Penh mà tôi đã quen năm 1971 khi phục vụ trong Phái Đoàn Liên Lạc Quân Sự, và sau tháng 8, 1984, trong các trại tỵ nạn Philippines, tôi đã vô vọng đi tìm gặp và nghĩ có thể đã bị Khmer Rouge giết rồi. Biết đâu, may ra, lần này.
Tôi trả lời, mắt sáng ngời hy vọng:
– OK trên nguyên tắc. Nhưng trước hết, có phải tên người ấy là Soriya?
Và kể sơ cho John chuyện của Soriya. John trả lời:
– Trên giấy tờ ghi Boupha. Tên thân mật ở nhà gọi là Varin. Có thể Soriya là tên thân mật thứ hai, I’m not sure.
– Có thể lắm. Tôi chưa hề biết tên thật của Soriya như thế nào. Nhưng tôi đồng ý.
John mừng rỡ, bắt tay tôi:
–Excellent. Tôi sẽ điền đơn chính thức cho bạn làm việc với bệnh viện để nếu cần bạn có thể đọc hồ sơ và được chia sẻ phần nào tin tức về bệnh nhân như một staff member.
Tôi bắt đầu công việc cuối tuần tới. Sau bữa ăn tại tiệm Yến Hà, vào Nhà Thương Núi cùng với anh để gặp Varin. John nói sơ về cô. Con nhà giàu, học trường Đầm tại Phnom-Penh. Chồng là bác sĩ, bị một tên Khmer Rouge chém hai búa vào đầu, chết tươi, ngay tại sân bệnh viện, trước mặt cô, khi thủ đô Cam Bốt bị chiếm vào thượng tuần tháng 4, 1975. Chưa con cái. Sau đó, cô trốn sang Thái Lan bằng đường bộ, cùng với một đám phụ nữ khác, tất cả bị lính Thái bắt, hãm hiếp nhiều lần, trước khi được cứu thoát và đưa đến trại tỵ nạn của Cao ủy Liên Hiệp Quốc. Và một số được chuyển về Bataan ở sáu tháng, để học tiếng Anh và chuẩn bị đi Mỹ. Đến Salem, sau một tuần, cô được bác sĩ và thân nhân đưa vào đây chữa trị. Bệnh trạng: Post Traumatic Stress Disorder (PTSD), thường thấy ở những Vietnam Veterans, và riêng Varin còn bị thêm chứng Dissociative Identity Disorder (DID), hoặc Dual Personality –căn bệnh không nhất thiết là hậu quả của, nhưng có chút dây mơ rễ má với, PTSD,John cắt nghĩa vắn tắt theo kiến thức chuyên môn. Về từ ngữ, tôi hiểu, đại khái, nhưng phần bệnh lý thì mù tịt. Nhưng cần gì, nhiệm vụ của tôi chỉ là thông dịch.
2.Đêm xuống, lạnh đầy. Mùa thu phủ màn sương dày trắng đục trên thành phố Portland. Ánh trăng rằm lơ lửng treo giữa một vùng trời tỏa chiếu những tia vàng vọt, run rẩy, loãng tan. Những hàng cây trong sân bệnh viện khẽ rung mình trước những ngọn gió lùa qua. Không gian vắng ngắt, yên tĩnh đến rợn người.
Tôi được John dẫn vào phòng Varin, nhỏ và sạch sẽ, gọn gàng. Không phải Soriya, tôi thở dài. Varin còn trẻ, khoảng ba mươi ngoài, suýt soát tuổi của Soriya –mà năm 1971 chỉ mới mười chín. Mỗi nàng đẹp một vẻ. Varin có mái tóc mượt đen, làn da trắng xanh, ánh mắt long lanh, đôi môi hồng thắm, và dáng dấp một tiểu thư con nhà khuê các.
Vừa thấy tôi, cô đang nằm ngó đăm đăm lên trần nhà vụt choàng dậy, và nói một tràng tiếng Pháp, mừng rỡ, tutoyer (xưng “anh, em”) với tôi:
– Ôi, Rithisak đấy phải không anh? Em là Boupha đây mà. Em chờ anh, nhớ anh quá chừng. Anh đi đâu bỏ em ở lại một mình? Ai đi với anh vậy?
Rồi hai tay ôm giấu mặt, cô rú lên, khi thấy John đến gần:
– Thằng lính Xiêm hả, hay thằng lính Pol Pot?
Tôi đứng im, bất động như trời trồng. Tiếng Pháp của cô thanh thoát, đúng giọng đầm. Tôi dịch liền cho John. Anh vui lắm, nói nhỏ với tôi, trong khi, có lẽ vì không hiểu tiếng Anh, cô ngơ ngác nhìn theo hai người:
– Như thế thì quá tốt. Từ ngày nhập viện đến nay, cô ta lầm lầm lì lì, ít nói, lúc nào cũng buồn bã, ủ rũ, hoặc thỉnh thoảng ôm đầu la hét, run lẩy bẩy, hoảng sợ, như bị ai bóp cổ. Theo hồ sơ, cô phát bệnh từ hồi còn ở trại Thái Lan, hoặc Bataan, nhưng chưa nặng như bây giờ. Vả lại, người tỵ nạn Đông Dương bằng đường bộ hay đường biển nào lại không có ít nhiều vấn đề liên quan tới tâm thần… Mấy năm trước, một cô Việt Nam bị hải tặc hiếp trên đường vượt biên cũng đã đến đây, cũng có những triệu chứng PTSD như thế, bây giờ khỏi bệnh rồi, sau khi được chữa bằng thuốc và tâm lý, nhất là tâm lý.
Tôi hỏi:
– Rithisak là ai vậy?
– Chồng cô, cũng người Cam Bốt, còn có tên Bernard, tốt nghiệp bác sĩ tại Pháp. Người nhà cho tôi biết hai vợ chồng ngày xưa có thói quen nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp. Bạn hãy nhập vai Rithisak, please, và tùy cơ ứng biến xử sự cho đúng vai trò. Hãy quên bạn là Julien, cựu đại úy Miền Nam Việt Nam hoặc đương kim giáo sư Pháp văn tại UO. Cứ để cô luân phiên sống một trong hai thể nhân, nghĩa là trong ảo tưởng hay ảo giác. Nghĩa là, rõ hơn, cô đang là vợ của bác sĩ Bernard-Rithisak qua hình bóng của giáo sư đại học Julien. Cho đến khi cô tự động, tự nhiên bước ra khỏi cơn mộng dài, gặp lại personality đích thực của mình, tức là mỹ nhân Boupha –xuất thân từ một gia đình trưởng giả, quý phái, gặp bao nhiêu bất hạnh khi tuổi đời còn quá trẻ. Có gì thắc mắc cứ thoải mái hỏi tôi nhé. Good luck.
– Còn bao lâu nữa?
– Chưa biết được. Cũng tùy. Hai tháng, một năm…
Tôi lại thắc mắc:
– John à, tôi chỉ được mướn làm thông dịch viên, không phải diễn viên đóng kịch. Mà đóng kịch, theo tôi, đồng nghĩa với nói dối. Đó là vấn đề lương thiện.
John lắc đầu, mỉm cười:
– Ồ, lương thiện hả? Nếu ta không lợi dụng ai, không lường gạt ai thì lương tâm không có gì phải áy náy. Nhất là khi ta không cố tình chủ động làm những việc này vì tư lợi. Đạo giáo và luân lý nào cũng cấm ta nói dối, hay đóng kịch, dĩ nhiên, theo nghĩa bóng. Nhưng nói dối đôi khi cần thiết nếu để cứu mạng một người. Một bà mẹ sắp chết trên giường bệnh hỏi thăm về đứa con trai duy nhất mà bà không biết vừa mới tử trận, lúc ấy, tôi hỏi bạn, bạn phải nói thật hay tìm cách nói dối, tức đóng kịch? Trường hợp Varin cũng không khác mấy.
Nói xong, không chờ câu trả lời, anh vỗ vai tôi, bỏ đi, nhẹ nhàng khép cửa, để tôi một mình với cô –cònlúng túng trước tình huống không ngờ, không tính trước.
Varin cười tươi, đứng lên, kéo tôi ngồi xuống chung giường.
– Anh có chuyện gì vậy, hả Bernard? Em là Boupha đây mà, anh không nhận ra em sao? Sao hôm nay anh hờ hững với em như thế hả? Ôm em đi.
Tôi ôm. Cô hôn môi, và vuốt má tôi:
– Trông anh ốm và xanh, nhưng vẫn còn đẹp trai, phong độ. Anh mới thay gọng kính hả? Bọn Khmer Rouge mới thả anh về? Bọn chúng đối xử tốt với anh chứ? Tội nghiệp, mon chéri.
Và cứ thế, cô tiếp tục câu chuyện, tiếp tục độc thoại. Những chuyện trên trời dưới đất, tôi chẳng hiểu gì cả. Lộn xộn, không đầu không đuôi, ngoại trừ, lạ quá, tiếng Pháp đúng giọng, lưu loát, đúng văn phạm của một người bình thường. Những chuyện ngày xưa thân ái giữa vợ chồng –mà bỗng dưng tôi phải dự phần một cách lờ mờ, thụ động. Lần hẹn hò khiêu vũ đầu tiên, Bernard nhớ không, anh khen em nhảy như con mèo cụt đuôi? Đám cưới đông, vui, hạnh phúc với biết bao bạn bè và người thân gia đình của em, của anh, có cả thằng em mất dạy của anh, nó dám chê cái áo cưới của em trắng quá. Tuần trăng mật tại Paris, ôi thôi, có bao nhiêu là đèn và một con ngựa chết trôi trên sông Seine. Rồi chiến tranh lan tràn. Rồi sự xuất hiện của tên coco Sihanouk, thằng assassin Iang Sary, và thằng salaud Pol Pot… Cô kể lể huyên thuyên, chuyện nọ xọ chuyện kia, như muốn giải tỏa những uẩn ức chất chứa từ lâu. Tôi chới với, ngồi im, chịu trận. Miễn cưỡng ôm và hôn cô như người máy theo yêu cầu trong vai kịch bất đắc dĩ. Chỉ nghe, và nói rất ít, vả lại cũng chẳng biết nói gì, lỡ sai, hư bột hư đường. Một lát sau, cô hỏi về con chó trắng lông xù của hai người trong căn nhà ở đường Monivong bây giờ đâu rồi, về bà dì của Rithisak thường gắn trên tóc cô những vòng hoa lilas để đi dạ hội mà bây giờ không biết ra sao từ biến cố 1975, về ước ao của cô được có một đứa con, gái trai gì cũng được, qu’importe… Tôi ú ớ vài giây, rồi sực nhớ lời dặn của John, ráng trả lời cầm chừng, lửng lơ, nước đôi.
Bỗng nhiên, cô hất mạnh tay tôi, nhăn mặt, lớn tiếng: “Tại sao anh không nói gì cả? Sao anh lạnh lùng với em đến thế?”
Tôi dịu giọng, nói dối một cách trơn tru: “Anh vẫn yêu em mà, như anh đã từng yêu em, cho đến hết cuộc đời mà. Em không tin anh sao… Je t’aime toujours, comme je t’ai toujours aimée, jusqu’à la fin de ma vie, de notre vie. Tu ne me crois pas?” Varin gật đầu, hài lòng, không nói nữa, ôm chặt tôi vào lòng. Rồi thấy mệt, cô nằm lại xuống giường, sau khi hôn tôi bonne nuit, mon chéri. Một lát sau, cô thiêm thiếp, hơi thở nhẹ, êm đềm đi vào gíấc ngủ.
Tôi lấy chăn đắp cho cô, ngắm cô giây lâu, nghĩ thầm: “Dính vào người điên, mệt quá, nhưng lỡ rồi”, rồi chặc lưỡi, lặng lẽ mở cửa phòng, bước ra hành lang, đứng nhìn bóng đêm ngập khu vườn nhỏ trước mặt. Một nỗi thương cảm tràn dâng, cùng lúc với sự mệt mỏi, căng thẳng tinh thần. Và nhớ câu nói muôn đời của cổ nhân: Hồng nhan bạc phận. Tôi nghĩ đến nỗi gian truân của bao khách má hồng tự thuở xưa, mà Thúy Kiều của cụ Nguyễn Du là một. Đến giấc mơ tàn vỡ của em gái Bội Trân, đang chôn vùi tuổi xuân và tình yêu đớn đau trong một tu viện xa xôi. Đến Lệ Ngà, đến Hương Mai, đến Marita, và biết đâu Soriya –những mỹ nhân đã sớm rời bỏ dương trần, từ những mùa chinh chiến cũ đến hôm nay, còn để mãi trong tim héo hon và lòng giấy trắng dung nhan yêu kiều và kỷ niệm xót xa. Người đẹp có bao giờ được hạnh phúc? Như định luật bù trừ đặt ra bởi ông “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”?
Từ đó, cứ mỗi thứ bảy, tôi lên Portland, ăn tối với John, rồi ghé “làm việc” với Varin trong điều kiện gay cấn như thế. Và mỗi lần, thấy cô dường như hồng hào hơn, xinh đẹp hơn, nói năng mạch lạc hơn. Nhưng vẫn tưởng tôi là Rithisak, hay Bernard. Phần tôi, đôi khi cứ ngỡ mình là chồng cô thật. Những ngày ở Eugene tôi thấy nhớ về cô một cách kỳ lạ. Nhớ mùi phấn hương trên áo, trên vai, trên tóc, trên môi. Nhớ những lời yêu, điên mê, nồng nàn cô dành cho người đã khuất. Thoáng nghe bên lòng những khát khao bất chợt, òa vỡ, được thôi đóng kịch, để ôm siết cô thực tình trong vòng tay mê đắm –những khát khao dù sao cũng bị kiềm chế mau chóng bởi nỗi lo sợ trước trách nhiệm, đạo lý, chưa kể kỷ luật làm việc và nhất là cặp mắt tinh quái của ông bạn kiêm “ông chủ” John, người giấu mặt, nhưng có thể thấy hết, nghe hết, biết hết. Hoặc thầm mong vẩn vơ, một ngày, cô khỏi bệnh, biết đâu cả hai, đều độc thân tại chỗ, sẽ kết tóc xe tơ một cách hợp pháp, tại sao không? Ôi, giấc mơ ngà ngọc trong những đêm trường mùa thu Eugene trằn trọc, lạnh lẽo, cô liêu.
Thấm thoắt mà đã ba tháng trôi qua, từ đó. Thu sắp tàn, đông sắp sang. Trời lập đông bắt đầu giá buốt, lạnh thấu xương, buổi sáng và buổi chiều có vô vàn giọt sương la đà, giăng mắc trên cây cành trụi lá. Tôi được nghỉ Noël và Tết Tây và lên Portland đóng đô một tuần lễ tại nhà người bạn. Một buổi trưa nắng đẹp, ấm áp, John gọi:
– Bạn có thể đến dẫn Varin dạo chơi trong vườn một chút được chứ?
Dĩ nhiên, of course, tôi trả lời. Khu vườn chan hòa ánh sáng với từng vạt nắng vàng óng ả soi rọi trên những giọt sương tan, lóng lánh muôn màu, qua các lối đi đầy cỏ mượt êm, mà tôi gọi là “nẻo đường mơ”, khiến Varin hớn hở lặp lại: “C’est ça, Bernard, l’allée du rêve. La nôtre.” “Nẻo mơ của chúng ta, cô tiếp, trên đó ta sẽ dìu nhau đi cho đến hết cuộc đời, phải không chéri?” Tôi mỉm cười, gật đầu. Chúng tôi sánh bước bên nhau, tay trong tay. Làm chợt nhớ câu thơ của Xuân Diệu: Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ / Lạc giữa niềm êm chẳng bến bờ… Có lúc cô ngừng lại, áp mặt vào vai tôi, thủ thỉ: “Oh, qu’est-ce que je t’adore, Rithisak. Comme toujours!” (Ôi, em yêu anh biết bao, Rithisak. Như luôn luôn!).
Sáng ấy, cô mặc áo len ấm màu xanh, bên ngoài khoác chiếc manteau tím nhạt. Tóc cài hờ hững với một cánh hoa vàng tự chế. Chân mỏi, chúng tôi đến ngồi trên băng ghế gỗ. Cô ngước nhìn bầu trời xa thẳm, xanh biếc một màu. Rồi bất thần hỏi tôi: “Đời sống quá đẹp như thế này, mà tại sao Thượng Đế bày ra chiến tranh làm chi, hở anh?
Một câu hỏi nhậy cảm cho những nạn nhân chiến tranh và lúc ấy quá bất ngờ đối với tôi. Tôi lắc đầu:
– Không phải Thượng Đế bày ra. Chiến tranh, cũng như đau khổ, là do con người.
– Con người, con người, không, em đã giết hết con người rồi, còn đâu? Con người là cái gì? Nếu Thượng Đế ác độc kia không bày ra chiến tranh thì con người lấy đâu bom đạn, làm sao con người phải chết, làm sao có máu lệ chan hòa mặt đất?
Nói đến đó, cô bưng mặt khóc nức nở: “Ôi, em sợ quá, máu đổ thịt rơi khắp nơi. Cứu em với! Au secours! Au secours! Kìa, dao găm, mã tấu, búa tạ, trời ơi! Anh có đau lắm không, Bernard?”. Tôi liếc nhìn cô, cảm thấy lo ngại, vì biết bệnh cô chưa hoàn toàn bình phục, lúc tỉnh lúc mê. Tôi ôm cô, vỗ về: “Không có gì phải sợ, vì có anh bên cạnh em”. “Thật không?”, cô hỏi.
Một lúc sau, Varin lại hỏi:
– Thượng Đế ác quá, cứ bắt con người đánh nhau hoài.
Tôi ôn tồn trả lời:
– Không phải vậy đâu em. Thượng Đế của em, của anh không ác như thế. Chỉ có những thần linh bất tử trong thần thoại Hy Lạp vì không được diễm phúc chết như loài người, nên sinh ra ghen tức với họ, bắt họ phải chém giết lẫn nhau cho bõ ghét. Anh suy nghiệm điều này từ L’Odyssée của Homère mà chắc em cũng đã học ở trường. Trong L’Iliade, các thần linh, đứng đầu là Jupiter, chia thành hai phe đối nghịch trong cuộc chiến tranh, mà chính họ gây ra, giữa thành Troie và Hy Lạp –xúi giục hai bên đánh nhau chí tử…
Tôi bỗng nhớ hình như đã nói điều này một lần với Soriya trong bữa ăn tối tại Phnom- Penh năm nào. Lúc ấy, Soriya đã đồng ý với tôi. Còn Varin thì có vẻ lạc lõng, không hiểu gì. Cô nắm lấy bàn tay tôi, vuốt ve, và tỉ tê:
– Anh có bao giờ muốn chiến tranh, anh có bao giờ muốn đi lính giết hết bọn Khmer Rouge để báo thù cho anh, báo thù cho em không?
– Dĩ nhiên, anh không muốn chiến tranh, nhưng trả thù cho em thì muốn lắm chứ!
– Được, em tin anh, Rithisak. Anh là bác sĩ mà! Bàn tay anh mềm mại quá.
Câu chuyện về chiến tranh, hận thù, chém giết, con người, thần linh… cứ vậy tiếp nối, lan man, khiến tôi mệt óc, muốn khùng luôn. Cho đến hai giờ sau, khi bóng chiều xuống nhanh, mặt trời sửa soạn đi ngủ sớm, cô than nhức đầu, và tôi đề nghị trở về phòng nghỉ. Sau đó, đi gặp John, “báo cáo” kết quả buổi dạo chơi trưa hôm ấy. Anh vui mừng bảo: “Cô hỏi những câu như vậy là một bước tiến thêm đến thành công”, nhưng không giải thích tại sao. Tôi tin vào khả năng chuyên môn của anh, nên không hỏi gì.
Ba tuần sau, John gọi thăm tôi từ OHSU, báo tin Boupha đã bình phục, tuy chưa hoàn toàn, nhưng có thể xuất viện, do yêu cầu của gia đình. Varin đã tỉnh, anh nói tiếp, nghĩa là biết personality thật của mình, nhận ra mình là ai rồi. Anh cám ơn tôi và mời lên Portland tham dự bữa tiếp tân “mãn khóa” tiễn cô về với thân nhân. Suốt tuần, tôi nôn nao mong ngày thứ bảy mau tới, chuẩn bị quần áo, cà vạt, tươm tất hơn mọi lần, nhất là nhẩm lại những lời lãng mạn trong tiểu thuyết trữ tình lâu ngày đã quên và hẹn ước sau này được gặp lại nhau ở một khung trời nào khác đầy mộng, đầy thơ, có hoa, có bướm, có những nẻo đường mơ rợp nắng thu vàng –đẹp hơn những allées chúng tôi đã đi qua trong khu vườn bệnh viện.
3.Trưa hôm ấy, khi tôi bước vào phòng tiếp tân thì John và các nhân viên Mental Health Department đã tề tựu đông đủ, có cả nữ bác sĩ giám đốc Marisa, người đôi khi hỏi han tôi về Varin, vây quanh nói chuyện với cô. Cô đẹp lộng lẫy trong chiếc sarong màu vàng nhạt, vẻ mặt rạng rỡ. Trên bàn đầy hoa và bánh cookie, nước ngọt. Thấy tôi đến chào, cô ngơ ngác, nhưng lịch sự chìa tay bắt, ngập ngừng nói bằng một thứ tiếng Anh ESL đơn giản, có lẽ học từ Bataan:
– Hi, Mr… Xin lỗi, ông là…?
Tôi vô cùng ngạc nhiên, và thất vọng, chưa kịp đáp thì John tiến đến, đỡ lời:
– Ngu-y-e-n, Julien. Professor Julien Ngu-y-e-n, từ U of O, bạn tôi.
– À. Hân hạnh biết ông, Professor Ngu-y-e-n, cô trả lời, vẻ thản nhiên.
Rồi quay sang tươi cười, ríu rít bằng tiếng Cam Bốt với một cô, cũng mặc sarong, mà John giới thiệu là Chandrea, em gái của Varin, định cư tại Mỹ từ 1975, đến để rước cô về Long Beach, CA. Tôi như bị sét đánh, chết điếng, thấy mình thừa thãi giữa đám đông, nhưng vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh. John lại đến bên, tay cầm ly coke, tay kéo tôi ra góc phòng, vỗ vai, cười vui, nói khẽ, với một chút hóm hỉnh:
– Varin khỏi bệnh, bây giờ là Boupha, đã biết mình là ai, cho nên không biết bạn là ai, dĩ nhiên. Nghĩa là trong trí cô, Julien là anh chàng Julien lạ hoắc, không còn thay thế Rithisak hay Bernard để làm chồng hờ nói tiếng Pháp của cô nữa. Đó, bạn đã thấy sự kỳ diệu của ngành tâm thần học chưa? Tất cả là nhờ công lao và tài diễn xuất tuyệt vời của bạn. Mission well accomplished, cám ơn và chúc mừng bạn.
Tôi gượng cười:
– Tôi cũng rất mừng cho cô ấy, và cho bạn.
Rồi John đi vòng vòng, tiếp tục chuyện trò với đồng nghiệp, bỏ tôi đứng ngẩn ngơ với sự tiếc nuối dày vò. Và tự ái nữa. Lòng ấm ức như thuở nhỏ bị mấy thằng nhóc lừa lấy mất đồ chơi. Tôi trở về Eugene ngay chiều ấy, loay hoay với câu hỏi thật vô lý, rất điên rồ: “Sao Varin không tiếp tục điên, cho tôi cứ tưởng nàng yêu tôi thật?”
Hai mươi lăm năm trôi qua kể từ mùa thu ấy. Tôi không bao giờ gặp lại Varin –mà tôi cố quên như một kỷ niệm buồn đã xa vời, khá vô duyên, nhưng hi hữu, cả đời người mới có một lần. Sau đó, John nghỉ việc tại OHSU, và trong một bữa ăn tối, anh cho biết Varin đã hoàn toàn bình thường, làm lại cuộc đời với một đồng hương tỵ nạn, cựu sĩ quan của Lon Nol. Anh chồng trở về Phnom-Penh, làm bộ trưởng trong chính phủ mới, thân Việt Cộng, nhưng cô nhất quyết ở lại Mỹ, không chịu về thăm quê hương, dù chỉ một ngày, khiến anh ta không biết tính sao.
4.Còn tôi, bảy năm sau truyện này, 1995, cũng lập gia đình. Với một người không điên chút nào. Quả thế, khác với bệnh nhân PTSD và DID Varin, khi nhận tôi làm chồng, Loan Mắt Nhung rất tỉnh táo, mặc dù, ai cũng biết, tình yêu lúc nào cũng được ví như một cơn điên.
Portland, 10 December 2013,