Những Tăng sĩ tu trong rừng ở Đông Nam Á, cũng còn được gọi là những Tăng sĩ khổ hạnh hay những Tăng sĩ tu thiền bởi vì họ thực hành những pháp tu khổ hạnh, đã làm hồi sinh lại truyền thống Phật giáo Theravāda có sự nối kết trực tiếp với Đức Phật lịch sử Gautama. Truyền thống Thudong này nhấn mạnh vào hành thiền và thực hành khổ hạnh chứ không phải vào việc theo đuổi học thuật và văn chương. Nó ca ngợi những vị ẩn sĩ sống rừng như là những người tương phản với những tu sĩ thành thị được tổ chức hóa thuộc những Tăng đoàn nhà nước tập trung.
Truyền thống tu sĩ tu trong rừng, có nguồn gốc từ Ấn Độ, đã được truyền sang Thái Lan, Miến Điện, Lào và Tích Lan. Tuy nhiên, sự hồi sinh của nó là một phong trào cải cách vào thế kỷ XIX liên quan đến môi trường rừng của nó. Truyền thống này ngày nay về cơ bản đã không còn tồn tại do vì môi trường tự nhiên của nó bị huỷ diệt. Tuy vậy, truyền thống Thudong tiêu biểu cho một sự thừa kế tốt đẹp về đời sống ẩn sĩ.
Nguồn gốc
Nguồn gốc của truyền thống tu sĩ ở rừng được truy nguyên từ vua Ashoka, thế kỷ III tr.TL, vị hoàng đế Phật tử của Ấn Độ, mà luật lệ bảo hộ nhà nước của ông đối với Phật giáo và sự bảo trợ những giáo đoàn truyền đạo đến những lân bang đã tiếp sinh lực cho Phật giáo phát triển bên ngoài mảnh đất khai sinh ra nó.
Nguồn văn học chính liên quan đến sự thực hành khổ hạnh trong rừng của các Tăng sĩ, tuy nhiên, là luận Thanh tịnh đạo (Visuddhimagga) vào thế kỷ V TL của Phật Âm (Buddhaghosa), mà nó đã giới thiệu vinaya hay nguyên tắc khổ hạnh, nền tảng của một phương pháp thiền bên trong ngữ cảnh của một bản trích yếu về giáo pháp. Tài liệu hàm súc này trở thành điều mà một người tinh thông gọi là “tiêu chuẩn bất khả phân của giáo pháp chính thống dành cho những hành giả Theravāda”.
Nhưng trải qua nhiều thế kỷ, sự ảnh hưởng của nó đã suy yếu và tan chảy. Sự hồi sinh của vinaya vào thế kỷ XIX đã cứu lấy một nguồn tài liệu quan trọng mà nó đã mang lại lực đẩy cho việc phục hồi sự thực hành ẩn dật.
Những nguồn gốc tu tập trong rừng của Tăng sĩ có thể nhận biết được phần nào ở nơi thuật ngữ được sử dụng. Như một học giả đã nói: Những Tăng sĩ khổ hạnh và tu thiền có thể được kể đến theo những trường hợp khác nhau như là những Tăng sĩ ẩn cư trong rừng, những Tăng sĩ khổ hạnh, hay những hành giả tu thiền, tùy thuộc vào phương diện đời sống được nhấn mạnh. Đáng nói là, những hành giả cư trú trong rừng đôi khi được đề cập đến như là tapassi… Thuật ngữ này thường được áp dụng cho những ẩn sĩ không thuộc Phật giáo, những người thực hành sự hành xác, và cho thấy mức độ mà việc tu khổ hạnh của Phật giáo có được sự hấp dẫn của riêng mình nằm ở nơi những truyền thống Ấn Độ khác.
Sự giống nhau bên ngoài của những Tăng sĩ sống ở trong rừng với những Sadhu của Ấn giáo và Kỳ-na giáo cho thấy một nền văn hóa tu khổ hạnh đầy sinh động ở Ấn Độ cổ và trung đại. Ở Ceylon (Sri Lanka) vào thế kỷ XII, Mahakassapa của xứ Dimbulaga đã làm hồi sinh pháp tu khổ hạnh Phật giáo trong việc công bố cuốn Mahavamsa của mình, một cẩm nang tu thiền, thêm vào một bộ những giới luật hay katikavatu để kiểm soát sự thực hành Tăng-già. Mahakassapa xa hơn đã đề nghị vua Sri Lanca thành lập một Tăng đoàn quốc gia. Mối liên hệ ít thực chất giữa người cai trị thế tục, thẩm quyền giáo hội và sự thực hành khổ hạnh, tuy nhiên, quấy rầy truyền thống khổ hạnh khắp Đông Nam Á theo một cách thức mà nó không ảnh hưởng đến những vị sadhu không thuộc Phật giáo của Ấn Độ.
Nguồn tài liệu khác của việc tu khổ hạnh trong rừng của Tăng sĩ được dựa trên những miêu tả truyền thống về Đức Phật ở trong những tiền kiếp được tìm thấy trong những câu chuyện Jātaka (tiền thân). Những câu chuyện Jātaka là một nguồn cảm hứng trực tiếp đối với Pannananda vào cuối thế kỷ IX ở Sri Lanka. Đây là nguồn tài liệu có tính chất văn học và dân gian hơn cả Visuddhimagga và những kinh luận chính thức khác.
Sự tu khổ hạnh trong Jātaka được tiếp tục ở Sri Lanka bởi người đệ tử của Pannananda là Subodnanda, người đã phát triển sự tu khổ hạnh ở trong làng nơi mà một nguyên tắc dành cho người thế tục là không được nương tựa vào những hình thức học thuật hay tu viện. Subodnanda cũng đã giới thiệu khái niệm “tự thọ giới” khi những Tăng đoàn của thành thị đã khước từ thẩm quyền của họ. Từ việc tu khổ hạnh được đặt cơ sở nơi làng mạc ở Sri Lanka dẫn đến sự tuyệt giao sau đó với việc hình thành nên những cộng đồng tu sĩ nhỏ được đặt cơ sở trên việc cư trú ở trong những khu rừng. Những cộng đồng Tăng sĩ nhỏ này (hầu như là tự thọ giới) được hiểu như là một Tăng đoàn nguyên thuỷ theo một kiểu thức mà Đức Phật Gautama lịch sử đã chấp nhận, theo anh hùng Ratanapala Asmandale của Sri Lanka, người đã sống đến giữa thế kỷ XX.
Thực hành
Luận Thanh tịnh đạo trình bày ba thành phần cốt tuỷ của pháp tu khổ hạnh: giới (sila), định (samadhi) và tuệ (panna). Ba phương pháp này được thực hiện vừa theo thứ bậc và vừa cùng một lúc.
Mục đích tối hậu của con đường là sự thanh tịnh (visuddhi). Thanh tịnh là phép ẩn dụ cốt yếu của sự thực hành: thanh tịnh thân và tâm. Đồng thời, con đường khổ hạnh được giới thiệu ở đây được biểu thị bằng một sự thực dụng tâm lý mà nó nhấn mạnh những kết quả cụ thể vượt qua những sự suy đoán và siêu hình.
Sự nhấn mạnh vào việc đạt lấy thanh tịnh thông qua thực hành hơn là qua học thuật và tiếp thu kiến thức này dường như phù hợp với mục đích của Đức Phật Gautama lịch sử, nhưng cũng cho thấy một sự thoát ly khỏi việc thể chế hóa tu viện và Tăng sĩ, điều thúc đẩy cho những gì được gọi một cách khéo léo bằng tiếng Thái là pariyat, hay “những tu sĩ học giả”.
Ngoài ra, luận Thanh tịnh đạo thấy môi trường vật lý tối ưu nhất cho con đường thanh tịnh là sự độc cư, hay ẩn dật (viveka). Như Suttanipiti nói:
Được tự do, như hươu ở trong rừng
Gặm chồi non ở nơi đâu nó muốn
Bậc trí nhân để tâm vào giải thoát
Một mình đi như tê giác một sừng.
Luận Thanh tịnh đạo giới thiệu 13 pháp tu khổ hạnh (dhutanga). Đây không phải là những phương pháp thực hành của Phật giáo từ khởi đầu mà là một sự phát triển tư tưởng về sau, được miêu tả ở trong những tài liệu được gán cho là những bản kinh của Đức Phật. Sự thực hành trở thành biểu tượng của việc tu khổ hạnh Phật giáo vào thời điểm cuốn Những câu hỏi của vua Milinda (Milindapanho) có ảnh hưởng (thế kỷ XII). 13 dhutanga là:
- Mặc y phục làm bằng giẻ rách.
- Sử dụng chỉ ba y.
- Sống bằng khất thực.
- Không bỏ qua bất kỳ nhà nào khi đi khất thực.
- Chỉ ăn ngày một bữa.
- Chỉ ăn từ nơi bình bát của mình.
- Không ăn suất ăn thứ hai.
- Ăn ở trong rừng.
- Ăn dưới gốc cây.
- Sống ở ngoài trời.
- Sống ở trong nghĩa địa.
- Bằng lòng với chỗ ở mà mình có được.
- Ngủ ngồi và không bao giờ nằm.
Tăng sĩ sống rừng phải lấy áo vải bị vứt bỏ làm y phục của họ, tiếp đến chỉ nhận áo vải được đặt tại nơi cư trú của mình hay dọc con đường đi hàng ngày. Nói chung, một vị Tăng chỉ có ba y.
Tăng sĩ không dự trữ hay nấu thức ăn mà hàng ngày đi vào ngôi làng gần đó (có thể cách một vài dặm) để khất thực. Điều này buộc họ phải tuần tự đến từng nhà một để khất thực. Họ không đi đến những nhà giàu nhất hay vị gia chủ tốt bụng nhất trước mà phải đến mỗi nhà theo thứ tự. Họ đưa bình bát ra trong im lặng. Các Tăng sĩ Sri Lanka che một cây quạt trước mặt, giống như những thiền sư Nhật mà chiến nón rộng vành có thể che phủ khuôn mặt của họ. Thức ăn phải từ phần dư của gia chủ, không phải dành riêng cho việc đến khách thực của vị Tăng hay được chuẩn bị trước cho họ. Những quy định này là tương tự với việc thực hành của những vị sadhu Hindu và Kỳ-na.
Công việc hàng ngày của các tu sĩ là đi khất thức vào giữa buổi sáng, sau đó quay trở về nơi cư trú vào lúc giữa ngày. Nếu họ thành lập nên một một tu viện có tổ chức, những Tăng sĩ tu trong rừng sẽ tụ họp ở một phòng riêng hay nhà ăn (sala), phân phối thực phẩm theo nhu cầu, và ăn bằng bình bát của họ trong sự im lặng, không có đồ dùng và không ăn khẩu phần ăn thứ hai. Nếu thức ăn của họ quá nhiều thì phải cho đi. Thức ăn điển hình của Thái là cơm, thường với nước sốt ớt, và một số rau quả, và đôi khi có trái cây. Các Tăng sĩ thường sử dụng giếng hay một con suối làm nguồn nước. Bữa ăn giữa ngày là bữa ăn duy nhất, nhưng trà vào buổi chiều từ thảo mọc là có thể được chấp nhận.
Nơi vị Tăng tu khổ hạnh sống thể hiện sự thực hành của họ. Những nơi ở ẩn dật phát triển hơn đã theo khuôn mẫu của những tu sĩ Thiên chúa giáo dòng tu khổ hạnh ở phương Tây: những nơi ở riêng nằm kề với nhau. Ở Thái Lan, thất riêng cho mỗi người được gọi là một kuti, làm bằng tre, lá cọ, hay những cây gỗ đã bị ngã đổ. Ở Sri Lanka, am thất thường làm bằng bê-tông và gỗ, với sàn bằng bê tông. Khi một vị thầy và đệ tử cư trú cùng nhau, thì nó là một nơi ở duy nhất. Khi một vị Tăng là ẩn sĩ, vị ấy có thể sống ở trong một cái thất đã được sử dụng trước đó nhưng có khả năng hơn là một hang động nếu vị ấy không di chuyển. Trong mọi trường hợp, việc cư trú phải ở trong một khu rừng với không có làng mạc hay nơi sinh sống khác có thể nhìn thấy hay có thể đến được dễ dàng.
Những hành giả sống một mình sẽ tìm kiếm những môi trường nghiêm ngặt hơn. Ở Thái Lan, những du tăng mang theo một klot (một lều vải nhỏ) và một chiếc màn ngăn muỗi, mà nó có thể dựng ở ngoài trời, trong một hang động, bên dưới một gốc cây, hay ở tại một nghĩa địa. Vị du tăng không than phiền về bất kỳ môi trường gì mà vị ấy đến. Việc không bao giờ nằm ngủ mà chỉ ngồi là thực hành khổ hạnh phổ biến suốt khắp truyền thống Phật giáo vào những thế kỷ sau. Chỉ một vị Tăng bị bệnh mới được nằm.
Thời khóa điển hình dành cho một Tăng sĩ sống rừng là ngủ từ 10 giờ tối đến 2 giờ sáng, hành thiền từ 2 giờ đến 6 giờ sáng, tắm rửa vệ sinh và quét dọn cho đến khi đi khất thực, sau đó quay về thọ thực, nghỉ ngơi, làm một số việc, và trải qua bốn giờ hành thiền khác, thường từ 6 giờ đến 10 tối.
Một trong những việc mà những vị Tăng sống ở làng – những người sống ở ngoài trời cận những ngôi làng cũng như những người sống ở trong những tu viện – phải làm là lao động chân tay để giúp đỡ những người dân làng vào lúc cần thiết chẳng hạn như đào giếng, xây nhà hay thu hoạch vụ mùa. Những vị Tăng không tránh tiếp xúc với dân chúng khi mục đích được xác định rõ và là phương tiện hữu ích thể hiện lòng từ bi.
Ngoài ra, những du tăng trưởng lão với một hoặc hai đệ tử hay những Tăng sĩ trẻ tuổi, có thể thực hiện một chuyến đi dài vài tháng, đôi khi không có một kế hoạch hành trình rõ ràng, đi theo những con sông, rừng núi, thung lũng, và men theo đường nhỏ của những ngôi làng biệt lập để khất thực, mặc dù có khi những vị du tăng đi mà không có thức ăn trong nhiều ngày khi họ bị lạc đường. Những vị Tăng như vậy có thể sẵn sàng chấp nhận việc thực hành ngủ dưới gốc cây ngoài trời, ở trong những hang động hay ở nghĩa địa, trong khi tuyệt đối trung thành với nguyên tắc thiền định ở nơi hoang vu.
Và thiền định thật sự là điều cốt tuỷ đối với sự thực thực hành của họ, trong một sự tương phản mạnh mẽ với những Tăng sĩ học thuật. Một người quan sát tóm tắt động cơ của những Tăng sĩ khổ hạnh như sau:
Họ biết rằng nếu họ nghiên cứu Pháp (Dhamma) mà không thực hành nó, họ vẫn không biết về ý nghĩa thâm sâu của nó. Họ nhận ra rằng giá trị của Pháp không được tìm thấy trong việc đọc và nghiên cứu mà ở nơi việc tu luyện tâm thức thông qua đời sống Thudong. Sau cùng, họ hiểu rằng nơi chốn tốt nhất để học hỏi giáo pháp của Đức Phật không phải ở trong một ngôi tự viện tiện nghi, mà ở nơi ngôi trường của chính họ, nơi đại học của chính họ: giữa rừng, một khu rừng nhỏ, bóng mát của một cái cây, nghĩa địa, ngoài trời, triền núi, chân núi, một thung lũng. Họ tin rằng những nơi như vậy được Đức Phật giới thiệu như là trường đại học tối cao.
Rừng được xem là môi trường thiên nhiên có giá trị cho sự độc cư và ẩn dật, và nhiều Tăng sĩ Thudong trở thành những ẩn sĩ vào những chu kỳ thời gian được chọn lựa, cư trú sâu trong khung cảnh biệt lập của những động núi và nơi ở trong rừng vắng. Trong khi kỳ an cư mùa mưa ba tháng thường thu hút những Tăng sĩ và thiền giả tạm thời, tính nghiêm ngặt của thời kỳ này là rất mực cao đối với những tăng sĩ chuyên tu. Những lợi ích của môi trường rừng dành cho thiền định, cho niềm tin được minh chứng nơi những huấn thị của một vị thầy, và dành cho hạnh phúc của cộng đồng tu sĩ sống rừng và những muông thú là những nguồn tích cực.
Ba nỗi sợ hãi
Nỗi sợ hãi đi cùng với nhiều người mới đến nơi hoang dã, do vì tình trạng không an toàn của đời sống và sự tồn tại hàng ngày mà đặc biệt là sợ hãi thú hoang, bệnh tật và sự xâm hại, và ma quỷ-do truyền thuyết văn hóa mang lại.
Nhiều Tăng sĩ sống trong rừng thuật lại việc họ đối mặt với những con thú hoang, cụ thể là cọp, voi và rắn. Cọp thường ẩn núp quanh những vị ẩn sĩ nơi những lều trại (klot) của họ vào ban đêm, và các Tăng sĩ học đối mặt nỗi sợ hãi một cách trực tiếp. Trong khi ở với một vị thầy, vị tu sĩ học lắng nghe và tuân theo không chỉ những lễ nghi và chuẩn tắc mà những gì làm và không làm với những con cọp xung quanh, nhờ đó chế ngự nỗi sợ hãi. Một vài vị thầy đi thiền hành vào lúc hoàng hôn hay ngũ trên đường mòn để rèn luyện tâm chống lại nỗi sợ hãi thú hoang, đặc biệt vì họ muốn những đệ tử của mình trải nghiệm cuộc sống ẩn sĩ, để du hành một mình, và để sống ở trong hang động hay dưới gốc cây.
Trong khi cọp và voi là điển hình ở những khu rừng Thái Lan, thì rắn là phổ biến ở Sri Lanka. Có một câu chuyện rằng, có một vị Tăng ngồi thuyết giảng một tiếng rưỡi trong khi một con rắn độc bò đến và nằm bất động sát một bên ông. Con rắn chỉ rời khi buổi giảng kết thúc. Câu chuyện này thuyết phục người nghe về năng lực chân thật của Pháp.
Trong những môi trường như vậy, việc tu luyện tâm là vô giá. Như một vị thầy, Ajan Man, đưa ra: Từ một tâm thức như vậy, một kẻ tấn công sẽ rút lui, dù đó là một con cọp, rắn hay một con voi. Vị hành giả thậm chí có thể đi thẳng đến nó. Thái độ của ông đối với loài thú được đặt trên lòng từ (metta), mà nó có một sự ảnh hưởng huyền bí, nhưng chân thực và thẳm sâu…
Nỗi sợ thứ hai mà những vị thầy đặt ra cho những đệ tử của họ vượt qua là nỗi sợ về tử thi và ma quỷ. Thanh tịnh đạo luận dạy thiền quán tử thi như một cách thức ghi nhớ về sự vô thường nhưng cũng là một cách thực hành thực tế để chế ngự sự cám dỗ nhục dục, và nỗi sợ hãi về bệnh tật. Nhưng trải qua ban đêm ở trong một nghĩa địa, cho dù ở trong một lều trại (klot) hay ở ngoài trời, có thể là nguồn của nỗi kinh sợ.
Nghĩa địa của (một số nước) Đông Nam Á không phải là những khu bia mộ và những bãi cỏ rộng rãi như thế giới phương Tây. Xác chết được mang đến và được đặt trong những tấm vãi liệm ở trên mặt đất. Sự hỏa thiêu sơ sài để lại những thứ chưa thiêu hết khi trời sẫm tối. Một vị Tăng ở lại trong một nghĩa địa vào lúc hoàng hôn khi dân làng mang một xác người được khâm liệm và để xác chết đang cháy âm ỉ trên bãi đất nơi vị Tăng có thể nhìn thấy nó từ cái lều (klot) của mình. Hầu như trong mọi trường hợp, mùi thịt bị thiêu cháy bủa khắp và kích thích sự tưởng tượng của vị Tăng. Vị Tăng được dạy nhận thức và quán sát nỗi sợ hãi, để kiểm soát nó với chánh niệm, và cuối cùng vượt qua nó. Nhưng điều đó hiếm khi xảy ra nếu không có sự trải nghiệm sâu sắc.
Nỗi sợ thứ ba là sợ khổ đau về thân xác. Sự đau đớn phổ biến của bệnh sốt rét đòi hỏi những người ở trong rừng phải có sức kiên trì, đặc biệt khi thuốc giảm đau không có ở những khu vực heo hút biệt lập. Bất chấp sự đau đớn của bệnh sốt rét, một số Tăng sĩ không thay đổi nguyên tắc của họ, vẫn bước đi trong đau đớn hay ngồi thản nhiên ở ngoài trời trong cơn mưa. Niềm tin rằng khổ đau có nguồn gốc ở trong tâm là một động lực mạnh mẽ để tu luyện.
Ở phạm vi thử thách thân thể, những Tăng sĩ sống trong rừng làm tương phản hoàn cảnh hoang vu của họ với môi trường ấm cúng của tu viện. Đối với những vị Tăng và ẩn sĩ sống trong rừng, nghiên cứu sách vỡ không thể chiến thắng được khổ đau thân thể. Một tri thức vững vàng có thể che đậy sư yếu đuối cảm xúc, suy yếu chánh niệm. Ajan Man, người đã trải qua một kỳ an cư mùa mưa trong khi bị những cơn đau dạ dày hành hạ khốc liệt, đôi khi đi vào thành thị và làng xóm để thử thách bản thân trước những cám dỗ của thực phẩm và tham muốn nhục dục.
Lịch sử
Về lịch sử, những Tăng sĩ và ẩn sĩ sống trong rừng ở Đông Nam Á là không bị kiểm soát và tuân theo nguyên tắc truyền thống. Đạo luật Tăng-già vào năm 1902 là nỗ lực chính thức đầu tiên mà nhà nước và Tăng đoàn Thái Lan muốn tập trung hóa việc tu hành ở trong tu viện. Đạo luật đã chỉ định nhà vua như là “người bảo trợ Tăng-già”, giám sát một vị Tăng thống trong việc trông coi những vụ việc tôn giáo.
Ảnh hưởng thực tế của Đạo luật, tuy nhiên, là để kiềm chế những Tăng sĩ sống trong rừng bằng việc tước đi quyền hạn của những vị thầy tổ của họ là truyền giới cho những Tăng sĩ mới hay thiết lập những tu viện. Những đặc quyền mà Đạo luật tập trung vào là những tu viện thành thị chủ chốt và những vị sư trưởng ở đó. Ở Sri Lanka, việc xây dựng luật tương tự đưa đến một phong trào “tự thọ giới”, với nhiều vị sư trụ trì các chùa làng khác nhau và những người có uy tín phá vỡ chính quyền tập trung và việc thiết lập giáo hội với sự ủng hộ của giới cư sĩ then chốt. Nhưng ở đây, phong trào cũng chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.
Một điều luật Tăng-già thứ hai vào năm 1962 dẫn đến điều mà một nhà chức trách gọi là “Thời kỳ xâm chiếm rừng” ở Thái Lan, có hiệu lực suốt cuối thập niên 80 thế kỷ XX. Một chế độ độc tài quân sự vào đầu những năm 60 đã đẩy mạnh phát triển kinh tế ở miền quê, điều đó có nghĩa là sự tập trung những nguồn đất nông nghiệp và nông thôn. Công nghiệp hóa và nạn phá rừng đã huỷ diệt nơi ở của những vị Tăng sống rừng (cũng như những loài thú hoang), chấm dứt những gì mà Tăng đoàn Phật giáo ở Bangkok không thể đạt được thông qua những luật lệ và sức ép.
Những vị Tăng sống trong rừng bị chính quyền gán ghép là cộng sản nhà nghề, và những khu rừng được xem như là những nơi ẩn náu dành cho những người nổi dậy, một quan điểm mà chính quyền Thái đã thể hiện trong suốt Chiến tranh Việt Nam. Những mục tiêu cụ thể của việc trấn áp là những du tăng và những Tăng sĩ sống làm việc ở làng. Hầu hết những Tăng sĩ ẩn dật miễn cưỡng dời đến những tu viện tập trung. Tất cả những Tăng sĩ bị sỉ nhục như là “những thầy tu nhắm mắt” bởi họ thực hành thiền định tương phản với những Tăng sĩ thành thị.
Nhưng chính việc đánh mất những khu rừng mới là kết quả rõ ràng nhất của thời kỳ này. Một vị học giả tóm tắt như sau: Bị ép buộc bởi tình trạng hỗn độn của những năm thập niên 60-70 (thế kỷ XX) buộc ra khỏi những nơi ẩn tu hẻo lánh của mình, những Tăng sĩ Thudong đã cố gắng dạy người khác về sự nối kết thắt chặt giữa con người và thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, họ đã không thể chống lại những lực đẩy kinh khủng của hiện đại hóa. Con người trong những xã hội hiện đại nói chung dường như không nhận thấy được ý nghĩa và giá trị lớn lao của môi trường.
Đối với những Tăng sĩ Thudong, nơi hoang dã xa xôi là một nơi thiêng liêng mà ở đó họ có thể tu luyện tâm thức. Khi họ chọn lựa, họ có thể rút sâu vào trong rừng rậm nơi không ai sẽ có thể tìm thấy họ. Rừng là nhà của những vị du tăng: nó chính là trường của họ, mảnh đất tu luyện của họ, là nơi thiêng liêng của họ, và đời sống ở đó chính là nơi an toàn đem lại cho các vị Tăng sự chánh niệm.
Thế hệ cuối cùng của những Tăng sĩ sống rừng được đưa vào trong những môi trường tu viện được kiểm soát, nơi họ nhận lấy “sự hỗ trợ vật chất dồi dào, địa vị cao, và sự tán dương thường xuyên” nhưng đã đánh mất đi sự độc lập và môi trường hoang vắng của họ vì những điều kiện giống như sở thú. Những cư dân và khách viếng thăm thị thành trông đợi các vị Tăng cầu an và bán bùa hộ mệnh cho họ. Những du khách không thể hiện sự quan tâm vào những lời dạy hay sự thực hành của họ. Người cuối cùng của thế hệ những Tăng sĩ Thái trứ danh sống trong rừng đầu tiên là Ajan Chah, mất vào năm 1994. Ông đã thuật lại cách ông cảm thấy như một con khỉ ở trên một sợi dây. Người ta đi đến trố mắt nhìn ông, thọc vào ông, xem ông nhảy. Ông từng nhận xét “Khi tôi bị mệt có thể họ ném cho tôi một trái chuối”.
Kết luận
Mối quan hệ giữa thực hành và môi trường là cần thiết đối với vị Tăng tu rừng. Như một học giả nhận xét: Truyền thống Tăng sĩ du hành trong rừng được phát triển bên trong một hệ sinh thái xã hội và tự nhiên đặc thù. Khi hệ sinh thái thay đổi – khi những khu rừng biến mất và những cộng đồng sống trong rừng biến mất hay thay đổi – truyền thống không thể tồn tại.
Bất chấp sự khẩn cầu của những Tăng sĩ Thudong, những khu rừng của Thái Lan đã hầu như bị đốn sạch. Và với sự mất mát này, truyền thống quý giá của Tăng sĩ và ẩn sĩ sống rừng hầu như bị tiêu diệt từ môi trường tự nhiên của nó. Nhưng những nguyên tắc của Thanh tịnh đạo luận tiếp tục tạo cảm hứng cho Phật giáo Theravāda và những người may mắn gặp được di sản Vipassana và truyền thống thiền định được lưu truyền đến thế giới hiện đại bởi truyền thống Thudong.
Nguyên Hiệp dịch (nguồn: hermitary.com)