Ai bỏ rơi miền Nam
Cách đây khoảng hơn chục năm tôi có đọc một bài nói về những người dân thiểu số Lào đi lính biệt kích cho Mỹ bị bỏ lại sau năm 1975. Họ phải sống trốn chui trốn nhủi trong rừng với vợ con, một tập thể gồm cả đàn bà trẻ nít rất đáng thương và không lối thoát. Họ vẫn bị Cộng Sản Lào truy đuổi khốn khổ mà vẫn phải sống, phải chiến đấu bằng những khẩu súng cũ mà người Mỹ trang bị cho họ.
Không phải riêng nhóm người này bị bỏ rơi mà miền Nam VN và cả Đông Dương bị người Mỹ rút quân bỏ họ lại cho CS trả thù, biết trước là những người cộng tác với Mỹ sẽ bị trả thù nhưng vẫn bỏ lại.
Nhưng nếu nói Mỹ bỏ đồng minh thì cũng rất mơ hồ vì nước Mỹ có hai chính đảng Cộng Hòa và Dân Chủ hay nói khác đi Bảo Thủ và Cấp Tiến. Hai đảng chủ trương hoàn toàn khác nhau y như mặt trăng với mặt trời, bên này bảo thủ, giữ những nền nếp cũ thí dụ cấm phá thai, trong khi bên kia cấp tiến chủ trương cho phá thai. Người dân muốn có cả hai đảng để dung hòa mọi vấn đề xã hội cũng như chính trị, văn hóa. Trên thực tế người dân không phân biệt Cộng Hòa hay Dân Chủ, đảng nào có lợi cho đất nước, đưa nước Mỹ tới chỗ cường thịnh thì bọ bầu lên. Người dân Mỹ thường bầu cho mỗi đảng làm hai nhiệm kỳ xen kẽ nhau vì họ sợ độc tài, trừ trường hợp đặc biệt một đảng được làm ba nhiệm kỳ.
Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam từ năm 1960 tới 1974 phe Dân Chủ luôn nắm ưu thế Quốc Hội dù bên nào nắm giữ Hành Pháp (Theo Wikipedia)
Từ 1960-1964 thời TT Kennedy, Dân Chủ vừa giữ Hành Pháp và 60% Hạ Viện (262 ghế), 64% Thượng Viện (64 ghế).
Từ 1964 tới 1968 thời TT Johnson họ giữ 67% Hạ Viện (295 ghế) và 68% Thượng Viện
Thời TT Nixon (1969) mặc dù Cộng Hòa giữ Hành Pháp nhưng Dân Chủ vẫn giữ ưu thế tại Lưỡng Viện Quốc Hội:
1969- 70, Dân Chủ giữ 55% Hạ Viện (243 ghế) và 57% Thượng Viện
1970-72, Dân Chủ 55 % Hạ Viện (242 ghế), 56% Thượng Viện
1974-76, Dân Chủ giữ 66% Hạ Viện (291 ghế) và 61% Thượng Viện
Họ chiếm ưu thế tại Quốc Hội có nghĩa là họ giữ túi tiền, họ có thể cắt viện trợ cho nước ngoài hoặc ra Luật Chấm dứt chiến tranh, đem quân về nước
Tình hình ngày càng bất lợi cho Cộng Hòa và Đông Dương, TT Nixon Cộng Hòa muốn giữ Đông Dương ít nhất trong hai nhiệm kỳ của ông. Trước sự đòi hỏi của nhóm Phản Chiến đòi rút bỏ Đông Dương, ông theo yêu cầu của họ nhưng cho đánh sang hậu cần CSBV tại Miên, Lào để chúng suy yếu, khi Mỹ rút quân đi họ sẽ không tấn công chiếm miền Nam được.
Trong khi ấy Dân Chủ có chính sách ngược lại, họ chủ trương rút bỏ Đông Dương. Nixon chủ trương rút quân về nước, ký kết Hiệp Định và thực hiện Hòa Bình trong Danh Dự, Dân Chủ muốn vứt bỏ Đông Dương cho rảnh chuyện. Trong cả hai lần tranh cử Tổng Thống 1968 và 1972 Dân Chù đều muốn vứt bỏ và cả hai lần người dân Mỹ muốn rút khỏi Đông Dương thực hiện Hòa Bình trong Danh Dự, họ đều bỏ phiếu cho Nixon.
Kissinger nói khi Nixon nhậm chức vào Tòa Bạch Ốc năm 1969, Dân Chủ trước đây đã can thiệp vào Việt Nam, nay họ trung lập giữa Hành Pháp (CH) và Phản Chiến, sau ngả theo Phản Chiến, họ kết án ông Nixon không theo giải pháp này, giải pháp nọ để giải quyết cuộc chiến mà chính họ đã gây nên, chính họ đã không giải quyết được (1).
Năm 1965, 66.. TT Johnson đưa quân vào để cứu miền Nam đang bị CSBV tấn công mạnh có nguy cơ sụp đổ, họ chiến đấu cho chính họ vì cái tương quan “môi hở răng lạnh”. Nếu mất Việt Nam sẽ mất Đông Dương, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai, Singapore.. như trong ván bài Domino, hồi đó họ tin vào thuyết Domino. Tuy nhiên Johnson sai lầm ở chỗ không thực hiện VN hóa chiến tranh ngay từ 1965, 66, không đánh mạnh ngoài Bắc cũng như trong Nam mà chỉ cho đánh giới hạn vì sợ đụng tới Nga, Trung Cộng. Ông thực hiện Chiến tranh giới hạn, Limited war .. nên đã kéo dài chiến tranh khiến phong trào chống đối lên cao.
Sau trận Mậu Thân năm 1968 cuộc chiến Đông Dương coi như vứt bỏ, không còn cách nào hàn gắn được, tất cả trách nhiệm đều do ở TT Johnson. Năm 1968 ông không ra tranh cử nhiệm kỳ hai và nhường cho Phó TT Humphrey vì biết trước sẽ chẳng có ai bỏ phiếu cho mình.
Nhưng một mình Dân Chủ không thể khuynh loát được Hành Pháp Cộng Hòa, họ kết hợp với Phản chiến, Truyền Thông để tạo một sức mạnh hòng có thể đánh đổ Cộng Hòa cũng như kiếm được lòng tin cậy của người dân Mỹ. Năm 1965, 66 truyền thông nói chung ủng hộ chính phủ, họ ca ngợi cuộc chiến chống Cộng Sản, ca ngợi người lính Mỹ nhưng dần dần họ thu lượm những chiến sự tàn bạo ngoài mặt trận đem về chiếu cho người dân xem để bán được nhiều tiền.
Một vị GS Canada có nói
“Truyền hình đã mang những cảnh chiến tranh tàn bạo tới căn phòng khách ấm cúng. Việt Nam thua từ trong những căn phòng ấm cúng ở Hoa Kỳ chứ không phải tại mặt trận bên Việt Nam”
(The Media: Vietnam war – Vietnamwar.net)
Năm 2000, TT Bill Clinton viếng thăm Việt Nam, báo Dallas Morning New đăng hình ông duyệt hàng quân danh dự của CSVN tại Hà Nội và viết:
“TT Clinton duyệt đội quân danh dự của Quân đội Nhân dân VN, quân đội duy nhất trên thế giới đánh bại Hoa kỳ”
(The only army in the world defeated the United States of America).
Người viết bài này bênh vực cho bọn chủ trương bỏ miền Nam, tác giả muốn nói do VC nó mạnh quá nên nước Mỹ bại trận.
Sự thực phần lớn Mỹ thua trận vì cái máy Truyền hình, lần đầu tiên những cảnh bắn giết hãi hùng đã được đưa tới phòng khách ấm cúng từ chiến trường VN, người dân Mỹ có thể coi những cảnh làng mạc bị đốt, trẻ em chết cháy, những túi xác lính Mỹ đưa về nước. Họ chỉ chiếu những cảnh nói về tàn sát Mỹ Lai, trong khi những cuộc tàn sát kinh hoàng của Cộng quận tại Huế, tại đại lộ Kinh Hoàng thì không nói tới. Năm 1950 trong cuộc chiến tranh Triều Tiên chỉ 9% dân chúng có TV, trong cuộc chiến tranh VN năm 1966 số người có TV tăng lên 93%.
Theo một cuộc thăm dò của viện Louis Harris thực hiện năm 1979, khoảng 60% cựu chiến binh cho rằng truyền hình không nói đúng sự thật. Ngoài ra hơn hai phần ba các cựu chiến binh cho rằng những bản tin về Mỹ Lai ảnh hưởng tới quan niệm quần chúng về hình ảnh người cựu chiến binh.
Theo ý kiến các cựu chiến binh các phóng viên, nhà sản xuất tin tức xuyên tạc sự thật, chỉ nói tới vụ tàn sát Mỹ Lai mà không đề cập tới những tội ác của CSBV. Họ chỉ nói tới những hành động tàn ác của một thiểu số lính Mỹ mà không đề cập tới những cái tốt của lính Mỹ như đã giúp đỡ người dân quê VN về nhiều phương diện. Họ chủ trương tạo những tin giật gân để gây chú ý hòng thủ lợi.
Trận Tết Mậu Thân 1968 là sự thất bại lớn của Cộng quân, tại các thành phố lớn số tử của họ là mười đổi một, nhiều cán binh vào Sài Gòn ngơ ngác lạc đường bị tóm cổ nhưng dưới sự mô tả láo khoét của Truyền Thông Mỹ thì đó lại là thắng lợi lớn lao của CS. Hình ảnh Đại tá Loan, Tổng giám đốc Cảnh Sát đã cầm súng lục bắn vào đầu tên tù binh Việt Cộng khiến cho dư luận chống chiến tranh có cớ la ó lên dã man, vô nhân đạo.
Năm 1968 Nixon đắc cử Tổng Thống, ông nhậm chức 1969 nhưng không có quyền quyết định mấy về Hiệp Định Paris, các vị chức sắc tại Quốc Hội Dân Chủ buộc ông phải ký Hiệp Định trễ nhất là tháng 1/1973. Họ luôn đe dọa ra Luật Chấm dứt Chiến tranh, rút quân về nước để đổi lấy 580 tù binh Mỹ (2). Nixon đã không có quyền hành thì thử hỏi Kissinger lấy quyền ở đâu? ông này chỉ là tay sai đắc lực của Nixon, trong White House Years, Kissinger kể lại tại Hòa đàm Paris, cứ ba ngày phải báo cáo cho Tổng Thống một lần để xin ý kiến.
Theo lời Kissinger sáu tháng sau khi Hiệp Định Paris được ký kết, Quốc Hội Dân Chủ cắt giảm quân viện cho VNCH tới xương tủy: Tài Khóa 1973 là 2 tỷ, năm 1974 chỉ còn 1 tỷ, năm 1975 còn 700 triệu. (3).
Quốc Hội muốn trói tay Hành Pháp, khi Tu chính án Luật cấm oanh tạc Đông Dương trình lên TT Nixon, ông phủ quyết (veto) và cho biết sẽ không yêu cầu CSBV rút khỏi Miên được. Quốc Hội giận dữ, TNS Mansfield hăm dọa Tổng Thống sẽ không có ngân khoản để điều hành Chính phủ
“Nếu Tổng Thống không muốn ngưng oanh tạc tại Miên coi như ông không muốn Chính phủ hoạt động, Tổng Thống sẽ phải chịu trách nhiệm” (4).
Cuối cùng ông phải đồng ý, không thể làm gì khác. Phe phản chiến đa số tại Quốc Hội muốn Nixon phải làm theo ý họ.
Ngày 30 tháng 6 (1973), TT Nixon ký thành luật Chấm dứt oanh tạc. Tu Chính Án nói:
“Từ nay sẽ không có ngân khoản nào để yểm trợ trực tiếp hay gián tiếp các hoạt động chiến đấu của Quân lực Mỹ tại tại Miên, Lào, Bắc Việt và Nam Việt hoặc ngoài khơi Miên, Lào, Bắc Việt, Nam Việt, và sau ngày 15 tháng 8 năm 1973, sẽ không có ngân khoản nào khác xử dụng cho mục đích này” (No More Vietnams trang180)
Một biến cố lớn của Cuộc chiến là TT Nixon bị lật đổ vì vụ Watergate ngày 8/8/1974. Dân Chủ lấy cớ ông ta nghe lén để dứt bỏ mối hiểm họa Nixon có thể liều lĩnh oanh tạc như tháng 12 năm 1972. Tội nghe lén cũng chẳng có gì lớn lao, chính TT Dân Chủ Johnson đã từng nghe lén Nixon xúi dục ông Nguyễn Văn Thiệu không tham dự ngày khai mạc Hòa đàm Ba Lê 10/5/1969. Ông Nguyễn Tiến Hưng, Trần Đông Phong đều đã nói thế, phim The Vietnam War và cả trên Wikipedia cũng nói vậy. Sở dĩ Cộng Hòa không truy tố hay thưa kiện vì chuyện chẳng đáng làm vả lại Johnson chỉ là một Tổng Thống vịt què thất bại, lật đổ một anh vịt què thật chẳng đáng làm.
Chúng ta chú ý một chuyện diễu khôi hài hết chỗ nói, Hoa Kỳ đưa trước 400 triệu còn lại 300 triệu họ chưa đưa và cho các Dân Biếu Mỹ sang Sài Gòn thăm hỏi nhân dân xem có thực sự cần 300 triệu hay không trong khi miền Nam bị Cộng quân tấn công dở sống dở chết, cuối cùng họ không đưa nốt lấy lý do đưa rồi cũng thua!
Quyết định cắt giảm đưa tới tình trạng thê thảm, theo ông Cao Văn Viên hậu quả là năm 1974 không quân đã phải cho hơn 200 phi cơ ngưng bay vì thiếu nhiên liệu, giảm số giờ bay yểm trợ, huấn luyện 50%, thám thính giảm 58%, phi vụ trực thăng giảm 70%. Hải quân cũng cắt giảm hoạt động 50%, 600 giang thuyền các loại nằm ụ (5)
Đạn dược chỉ còn đủ đánh tới tháng 4 /1975, năm 1972 ta xử dụng trên 69 ngàn tấn đạn một tháng, từ tháng 7/1974 đến tháng 3/1975 ta chỉ còn xử dụng khoảng 19 ngàn tấn một tháng hoả lực giảm 70%. Tháng 2/1975 chỉ còn đủ đạn tất cả các loại súng cho 30 ngày, tháng 4/1975 chỉ còn đủ đạn đánh trong khoảng hai tuần (Sách đã dẫn trang 92). Trung Tướng Trần Văn Minh, cựu Tư lệnh không quân cho biết máy bay thiếu cơ phận thay thế, thiếu nhiên liệu cất cánh nên phần nhiều năm ụ.
Trong khi ấy theo Kissinger (6) Hà Nội đã xin được viện trợ của Sô viết tăng gấp bội. Tháng 12/1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris, Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Sô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó.
Cả hai miền Nam Bắc chỉ trông cậy vào vũ khí đạn dược của ngoại quốc như Nga, Trung Cộng và Mỹ, trong khi Nga, Trung Cộng tăng cường viện trợ cho CSBV, Mỹ cắt viện trợ cho VNCH tới xương tủy thế mà tác giả Issacson còn nói: Miền Nam chỉ dựa vào quân đội Mỹ, khi Mỹ rút đi thì sụp đổ chẳng lẽ thanh niên của chúng ta cứ phải bảo vệ cho họ suốt đời !!!
Vài nhận xét
Dân Chủ bỏ miền nam VN ai cũng thấy cả và họ luôn có những cò mồi bào chữa cho mình, đổ lỗi lên đầu Kissinger, Nixon. Trước hết phải kể Frank Snepp với cuốn sách nổi tiếng Decent Interval, Khoảng Cách Vừa Đủ, cuốn sách này đã được Việt Cộng dịch ra tiếng Việt chắc quí vị đã biết. Theo Frank Snepp thì Kissinger và Nixon đã ký Hiệp Định Paris với Bắc Việt, tạo một khoảng cách vừa đủ để miền Nam sụp đổ dần dần khoảng 1, 2 năm sau Hiệp Định. Nhưng Nixon bị Dân Chủ đàn hặc, truất phế vì Watergate khiến ông phải từ chức ngày 8/8/1974 thì còn quyền hành gì để bỏ miền Nam? Kissinger chỉ là tay sai đắc lực của Nixon quyền hành ở chỗ nào mà bỏ miền Nam?
Tôi đã viết một bài về đề tài này “BBC: Frank Snepp giải thích Hoa Kỳ đã ‘bỏ rơi’ Việt Nam Cộng hòa như thế nào” xin đề cập một tác giả khác.
Walter Issacson trong cuốn Kissinger, A Biography nhà xuất bản Simon & Schuster năm 1992, tác giả bỏ ra gần 700 trang giấy để viết về Kissinger một phụ tá đắc lực của TT Nixon cho thấy sự không cân bằng. Tác giả đã khoác cho Kissinger một vai trò lớn mà thực ra chính ông ta kể lại thì ông chẳng là cái gì của Nixon. Trong cuốn White House Years, Phần thứ XXXIII, Peace Is at Hand và Peace at Last ở cuối sách (trang 1395 tới trang 1476), Kissinger kể về Hòa Đàm Paris giai đọan cuối, ông nói vài ngày phải báo cáo cho Tổng Thống một lần để xin ý kiến, Nixon giám sát chặt chẽ Hòa Đàm, thế mà người ta vẫn cứ tưởng Hiệp Định Paris là tác phẩm của Kissinger! Dễ gì Kissinger qua mặt được một Tổng Thống cáo già như Nixon!
Trong cuốn biên khảo này, phần đầu Issacson nói về Kissinger và Nixon nhậm chức tại Tòa Bạch Ốc và Hòa Đàm Paris, trong nhận xét của Walter Issacson về Hiệp Định ông ta có nói ở trang 484 như thế này
“But was it worth four more years of war in order to get a cease-fire that allow Thieu to retain authority in Saigon?”
“Có đáng giá cho ta kéo dài chiến tranh thêm bốn năm nữa để đạt ngưng bắn và để Thiệu giữ được Chính quyền tại Sài Gòn”
Đó chính là giọng của Con Lừa, muốn vứt bỏ miền Nam ngay cho đỡ phức tạp.
Theo Walter Hiệp Định tháng 1/1973 cũng giống như Hiệp Định do VC đưa ra 1969: Chương trình mười điểm, ông ta nói Sự thương thuyết đã trả giá, làm chết thêm 20,552 lính Mỹ, Chính phủ Nixon gây tai tiếng xấu cho nước Mỹ. Hiệp Định chỉ kéo dài hai năm, sau đó CS chiếm hết, Thiệu bỏ chạy, đó chỉ là sự cố gắng vô nghĩa.
Nhưng ai cắt viện trợ tới xương tủy để miền Nam không còn sức kháng cự? Có khi nào Dân Chủ ngưng tay phá hoại không? Có khi nào họ để yên cho TT Nixon làm việc hay không?
Trang 488 Walter nói nếu dân miền Nam VN và chế độ sộc sệch của họ không đủ sức tự vệ sau tám năm được Mỹ yểm trợ to tát, nếu họ không đủ sức chống lại BV mà không có thanh niên Mỹ hy sinh cho họ mãi mãi, như vậy có đáng để ta hy sinh hay không?
Quân đội VNCH có trên 200 ngàn lính đã tử trận, chẳng lẽ miền Nam VN nhờ xương máu của 58 ngàn lính Mỹ mới tồn tại?
Giọng Walter Issacson chính là giọng của Con Lừa
Trang 485 ông ta nói tại Nixon và Kissinger phải thảo luận với Quốc Hội Để lấy sự ủng hộ của QH và trong nước! diễu hết chỗ nói, một QH Dân Chủ xỏ lá ba que chuyên phá đám mà ủng hộ ai.
Tướng Weyand đi nghiên cứu tình hình VN trở về mồng 3/4/1975, ông đề nghị TT Ford cho oanh tạc B-52 và xin viện trợ khẩn cấp 722 triệu cho quân đội VNCH gồm 440 xe tăng, 740 đại bác, 100,000 súng cá nhân và 120,000 tấn đạn. (trang 640)
Trong chương cuối Miền Nam sụp đổ tháng 4/1975, The Fall of Vietnam april /1975, Walter cho biết Kissinger nói “sao bọn (VN) chúng không chết quách cho rồi” và rồi khi TT Ford ra Quốc Hội xin 722 triệu khẩn cấp Kissinger lại nhiệt thành ủng hộ, ông ta đã soạn diễn văn cho Tổng Thống chỉ trích Quốc Hội không chịu giữ uy tín cho nước Mỹ nhưng Ford giảm bớt những lời Kissinger chống Quốc Hội khiến sau này Kissinger cáu um lên và ông vẫn nhiệt tình với miền Nam cho tới giờ phút chót.
Hôm 10 tháng 4 Ford ra trước Quốc Hội để xin 722 triệu viện trợ khẩn cấp, nhưng là một Tổng Thống bù nhìn không do dân bầu, một nhà lãnh đạo tồi tệ nhất nước Mỹ, ông chỉ xin cho có lệ. Kissinger soạn diễn văn cho TT Ford nguyên văn.
“Mỹ không muốn cung cấp viện trợ đầy đủ cho đồng minh của ta chiến đấu tự vệ sẽ ảnh hưởng trầm trọng uy tín của ta trên thế giới như một đồng minh và chữ tín này là cơ bản cho an ninh của chúng ta”
Nhưng TT Ford bỏ bớt câu này nhờ Chánh văn phòng Hartmann viết dùm khiến sau này Kissinger cãi cọ ầm ĩ, ông tin là với 722 triệu có thể soay sở được tình thế . (trang 643)
Ngày 24/4 TT Ford tới Đại Học Tulane, Lousiana trước mặt 6,000 sinh viên ông nói “The war is over”, lời nói chậm và dài, nước Mỹ không thể chiến đấu trở lại cái đã chấm dứt liên hệ tới Mỹ. Đám đông sinh viên reo hò ầm ĩ, sung sướng đập bàn ghế, ôm nhau nhẩy la hét…khi biết chiến tranh VN không còn với Mỹ, nghĩa là họ không phải ra trận, không phải bỏ xác nơi chiến địa.
Đó là sai lầm lớn nhất trong lịch sử Mỹ của TT Johnson, đáng lý ra phải Viêt nam hóa chiến tranh ngay từ độ ấy những năm 1965, 66. Một anh nhà nghèo không sợ chết đánh nhau với một anh nhà giầu đêm ngày chỉ lo sợ phải ra chiến trận.
Lê Duẩn tỏ ra am hiểu tâm lý người Mỹ khi ông ta chấp nhận thí quân, hy sinh 15 hay 20 cán binh để giết một người lính Mỹ ngõ hầu đẩy mạnh phong trào phản chiến, vì thế mà MƯỜI người bộ đội lên đường vào Nam chỉ có MỘT người trở về.
Sau đây là lời tác giả nói về TT Ford và Kissinger: (trang 644)
“Kissinger muốn đổ lỗi, chỉ trích lên án Quốc Hội có thể Logic nhưng không còn hợp thời. Điều bổ ích nhất cho nước Mỹ cần làm, cho tâm lý trong nước và ngay cả uy tín với ngoại quốc ấy là để Chiến tranh Việt Nam ở lại sau lưng
The healthiest thing for America to do, both for its own domestic pychology and even for its credibility abroad, was to put The VietNam War behind.
Nhiều năm sau Ford nói
Kissinger không muốn câu của Ford “chiến tranh VN đã qua”. Kissinger muốn xin thêm viện trợ và đổ lỗi cho Quốc Hội, tôi cũng vậy. Nhưng tôi đã ở Quốc Hội 25 năm, tôi không nghĩ họ (QH) sẽ chấp thuận, đó là điều tôi và Kissinger không đồng ý, và tôi đúng, tôi biết hệ thống này hơn Kissinger (trang 645, 646).
Sau chiến tranh Kissinger viết lần đầu tiên trong thời hậu chiến Hoa Kỳ bỏ rơi một dân tộc hòa bình tin tưởng chúng ta cho chế độ CS lâu dài
(Ameria abandoned to eventual Communist rule a friendly people who had relied on us)
Trang 647 Walter viết: Việt Nam cuối cùng đã mất năm 1975 nó thể hiện cú đấm vào Uy tín của Mỹ, nó phá hỏng những lời đe dọa và hứa hẹn của Mỹ trên thế giới.
Kissinger nói: “vì tính tự khoan dung cho mình, nước Mỹ đã phá hỏng cơ bản tự do khắp nơi (By our self-indulgence, he said, we dammaged the frabric of freedom everywhere)
Kissinger nói: Đông Dương đầu hàng đã mở ra một thời kỳ ô nhục cho nước Mỹ, nó đã kéo dài từ Angola tới Ethiopia, tới Iran tới A Phú Hãn.
(The surrender in Indochina, he said usherd in a period of American humiliation that stretched from Angola to Ethiopia to Iran to Afghanistan)
Issacson dù sao cũng nhìn nhận Hoa Kỳ bị mất uy tín:
Trang 648 ông ta viết lý luận về chữ uy tín trở thành phức tạp, ông thể phủ nhận rằng uy tín của Quốc gia trong việc giữ lời hứa và chống lại kẻ địch đã có ảnh hưởng trên thế giới như Kissnger đã lý luận
Walter Issacson nhận định TT Gerald Ford, sau này ông khen Kissinger nhưng nói Kissinger không muốn tôi nói câu Chiến tranh đã chấm dứt, Henry muốn chiến đấu để xin thêm viện trợ và Henry chê trách Quốc Hội …The line about the war being finished, Henry didn’t like that sentence, Ford said, I knew he want to keep fighting for more aid and that he blame Congress”
Kissinger và Nixon sau này đều đổ lỗi cho Watergate (trang 487)
Kissinger nói: nhưng sự sụp đổ của Hành Pháp chỉ là hậu quả của vụ Watergate, tôi tin đáng lẽ ta đã thành công (but for the collapse of Executive authority as a result of Watergate, I beleive we would have succeeded)
Nixon cũng nói: Nếu tôi còn tại chức, tôi nghĩ ta có thể xúc tiến Hiệp Định được, nam VN vẫn có thể tồn tại như một nước không CS (Had I survived, said Nixon, I think that it would have been possible to have implemented The Agreement. South Vietnam would still be a viable noncommunist enclave)
Nhưng tác giả Walter Issacson nói (trang 487) một khi Mỹ đã tìm đường thoát ra khỏi VN, cả Quốc Hội và người dân đã không cho phép sự tái chiến, dù có hay không có vụ Watergate.
Thực ra ông này nói sai, Quốc Hội Dân Chủ tìm đường ra chứ không phải người dân, họ bịp bợm người dân bằng Truyền thông láo khoét: Trận Mậu Thân 1968, bọn Việt Cộng mất gần hết chủ lực quân. Trong số 84 ngàn quân đưa vào trận đánh chúng bị thiệt hại 58 ngàn người, 10 ngàn bị tóm cổ, chỉ có một số ít chạy thoát, cơ sở nằm vùng bị bại lộ… nhưng bọn báo, đài Mỹ đã loan tin bịp bợm tại nước Mỹ, chúng nói VC thắng lớn khiến những cuộc biểu tình của Phản chiến dữ dội đã sẩy ra, chúng đòi chính phủ phải ra khỏi cuộc chiến ngay.
Nay năm 2022, tình hình chiến sự Ukraine xa lơ xa lắc không ảnh hưởng tới Mỹ là mấy nhưng chính phủ Mỹ đưa ra Hạ Viện xin một số tiền khổng lồ viện trợ 40 tỷ cho đất nước này để họ đẩy lui cuộc xâm lược của Nga. Cũng lại đảng Dân Chủ 2022 nắm ưu thế Quốc Hội như Dân Chủ 1975 trong Cuộc chiến VN, nhưng trái ngược với Dân Chủ 1975 khi tại Quốc Hội Mỹ Tổng Thống Gerald Ford xin 722 triệu viện trợ khẩn cấp cho miền Nam thì họ dè bửu, khinh bỉ, có người bỏ ra ngoài phòng họp. Khi xin viện trợ để cứu với người tỵ nạn Đông Dương thì có hai vị dân biểu nói quyết không cho một tên tỵ nạn VN nào vào Mỹ!
Họ giúp miền Nam chống CS vì tương quan “môi hở răng lạnh”, mất miền Nam sẽ mất Đông Nam Á như trong ván bài dominoes, nay họ giúp quân viện 40 tỷ cho Ukraine vì bầu cử, những cuộc bầu cử sắp tới 2022, 2024 sẽ quyết định vận mạng Cộng Hòa hay Dân Chủ.
Một mình Dân Chủ không đủ sức mạnh để uy hiếp đối lập và bỏ rơi Đông Dương, họ phải kết hợp Truyền Thông và Phản chiến. Ngay từ thời Chiến tranh VN, đám đông thầm lặng, Great Silent Majority vẫn ủng hộ cuộc chiến, trong phim The Vietnam War, quay năm 2017, tập 8 The History of The World (4/1969-5/197). Trong một cuộc biểu tình tại Manhattan, hàng trăm công nhân xây cất đang làm việc, họ ngừng tay lấy dụng cụ, gậy gộc đập bọn sinh viên tơi bời khiến 70 anh què chân, gẫy tay phải vào nhà thương. TT Nixon gửi thư cho nghiệp đoàn nói ông rất vui được biết người dân ủng hộ ông để bảo vệ đất nước và thù ghét bọn phá rối sinh viên. Trong The White House years của Kissinger cũng nói về đoạn đám sinh viên biểu tình gây rối bị thợ xây cất cho ăn đòn.
Ngày nay Phản Chiến bị xếp vào loại Phản Quốc, Jane Fonda bây giờ đi xin lỗi trối chết, trong cuộc tranh cử Tổng Thống năm 2004 giữa Bush con (CH) và John Kerry (DC), cử tri không bỏ phiếu cho John Kerry vì trong thời kỳ Chiến tranh VN, ông thuộc nhóm Phản chiến, ông đã ném trả huy chương tại Quốc Hội. Sở dĩ người ta không bầu cho Kerry làm Tổng Thống vì ông không đủ tư cách làm Tổng Tư Lệnh Quân đội.
Truyền Thông bây giờ cũng khó lường gạt dân như xưa, nhiều hãng truyền hình, báo giấy lỗ vốn vì ít người xem, người đọc. Truyền thông nay nói láo còn hơn Việt Cộng, người dân biết cái tẩy của Truyền thông, nay Dân Chủ cũng kết hợp Truyền Thông như trên nhưng không thành công mấy.
Vấn đề đặt ra là bỏ miền Nam VN và cả Đông Dương có ảnh hưởng gì đến uy tín nước Mỹ hay không? Năm 1944, 45 Mỹ nhường Đông Âu cho Nga để nhờ Nga phụ giúp một tay đánh quân Nhật. Cái nẩy nó sẩy cái ung, khi Nga đánh Lộ Quân quan Đông của Nhật tại Mãn Châu, họ chiếm được kho vũ khí to lớn, vĩ đại của Nhật để giao cho Trung Cộng khiến sau đó Mao trạch Đông thắng Tưởng giới Thạch trong trận chiến một mất một còn. Mỹ lại bỏ Trung Hoa, bỏ Quốc Dân Đảng để rồi hậu quả như ngày nay ai cũng đều thấy cả.
Tác giả Walter Issacson nói bỏ miền Nam VN sẽ không làm cho các nước khác hết tin cậy vào Mỹ, thí dụ Nhật, Đại Hàn, Thái Lan phải tự phấn đấu nhiều hơn để tự vệ, họ cũng coi đó làm gương để càng trông cậy vào Mỹ hơn.
Sự thực trái ngược với lời anh tác giả khuynh tả này, trong xếp hạng về Quân sự trên thế giới của Trang Hỏa Lực Toàn Cầu (globalfirepower.com), từ 2021 tới nay Nhật đã leo lên hàng thứ 5 trên Pháp, Anh, cũng vậy Nam Hàn đã lên hàng thứ 6 trên Pháp, Anh. Họ đã tự phấn đấu để không còn lệ thuộc vào Mỹ.
Nay các nước trong vùng Biển Đông như Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân… đều thù ghét Trung Cộng nhưng không có nước nào theo hay gắn bó với Mỹ. Họ đều trông cái gương Việt, Miên, Lào trong biến cố 1975 để mà giữ thân.
Trọng Đạt
(1) Years of Renewal, Chương VIII The Agony of Vietnam, trang 227
(2) Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam, trang 200
(3) Kissinger, Years of Renewal trang 471.
(4) Nixon: No More Vietnams trang 180
(5) Cao Văn Viên, Những Ngày Cuối Của VNCH trang 86, 87
(6) Kissinger, Years of Renewal trang 481