Vài hàng về tác giả
Cung Trầm Tưởng tên thật là Cung Thức Cần sinh ngày 28 tháng 2 năm 1932 tại Hà Nội.
Năm 15
tuổi (1947), ông bắt đầu làm thơ, và có tập thơ đầu tay tên Sóng đầu dòng (chưa in).
Năm 1949, ông rời Hà Nội vào Sài Gòn, học tiếp trung học tại trường Chasseloup
Laubat (nay là Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn)
Năm 1952, sau một năm học đại học, ông sang Pháp du học tại Trường Kỹ sư không quân ở Salon-de-Provence.
Mùa thu Paris
Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly
Năm 1957, ông tốt nghiệp trở về nước làm trong ngành không quân của Việt Nam Cộng hòa. Trong năm này, hai bài thơ của ông là Mùa thu Pari và Vô đề (thơ trường thiên) xuất hiện trong tuyển tập Đất đứng của nhóm Quan Điểm (gồm Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng), và đã làm người đọc chú ý.
Năm 1958, ông đứng ra chủ trương tờ Văn nghệ mới và cộng tác thường xuyên cho các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại, Nghệ thuật, Văn, Khởi hành…
Trong khoảng thời gian này, nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc một số bài thơ của ông, đó là bài Mùa thu Paris, Chưa bao giờ buồn thế (Phạm Duy đổi tên thành Tiễn em), Bên ni bên nớ, Khoác kín (Phạm Duy đổi tên thành Chiều đông), Kiếp sau, Về đây…[1]
Năm 1962, ông sang Hoa Kỳ học về khí tượng, đậu Tiến sĩ khí tượng học tại Đại học Saint Louis. Sau đó, ông trở về Sài Gòn tiếp tục làm trong ngành không quân với cấp bực cuối cùng là Trung tá (1975).
Năm 1993, ông sang Hoa Kỳ định cư.
***
Tác phẩm của Cung Trầm Tưởng đã in:
Tình ca (Nhà xuất bản Công đàn, Sài Gòn, 1959)
Lục bát Cung Trầm Tưởng (Nhà xuất bản Con đuông, Sài Gòn, 1970)
Lời viết hai tay (Nhà xuất bản Imn, Bonn, 1994)
Bài ca níu quan tài (tác giả tự xuất bản, Minnesota, Hoa Kỳ, 2001)
***
Mặc Lâm, phóng viên RFA, đã viết về Cung Trầm Tưởng như sau:
Cung Trầm Tưởng là một nhà thơ rất quen thuộc từ đầu thập niên 60. Tên tuổi Ông
nhanh chóng tràn vào giới thanh niên trí thức thời bấy giờ khi ông từ Pháp trở
về Việt Nam
cùng không khí lãng mạn của phong trào thơ mới, lúc đó vẫn còn ảnh hưởng nhiều
đến thanh niên trí thức Việt Nam.
Ngay cái tên của ông cũng đã ấn tượng đối với nhiều người vì chất văn học rất
đậm trong mỗi chữ: Cung Trầm Tưởng.
“Tôi là Cung Trầm Tưởng vào khoảng 50-51 tôi du học tại Pháp..sau đó tôi thi đỗ
vào trường không quân của Pháp học chung với ông Nguyễn Xuân Vinh, ông Nguyễn
Ngọc Loan…Đến năm 1957 tôi trở lại Sài Gòn và phục vụ trong binh chủng không
quân cho đến ngày 30/4/1975 tức là được 23 năm.
Trong thời kỳ ở Pháp tôi làm thơ rất nhiều tập trung vào thơ lãng mạn, tình yêu đôi lứa như Mùa Thu Paris, Chưa Bao Giờ Buồn Thế được tôi sáng tác trong khoảng thời gian này. Có những bài thơ tôi chưa từng đăng bất cứ báo nào thì bây giờ nó sẽ được tập trung lại trong toàn tập thơ của tôi trong 60 năm mang tên Cung Trầm Tưởng và Hành Trình Thơ, sẽ được xuất bản trong năm tới.”
Cung Trầm Tưởng vừa sơ lược cho chúng ta biết về đời sống sáng tác của ông mà trong đó phần quan trọng nhất làm nên một Cung Trầm Tưởng từ một bài thơ sống rất lâu trong trí nhớ nhiều người đó là tác phẩm Mùa Thu Paris. Tác phẩm này được đem tới người nghe qua tài năng của Phạm Duy khi ông phổ nó thành thơ và giới thiệu trên đài phát thanh Sài Gòn.
Ngôn ngữ trong bài thơ thật ra không phải mới lạ hay phá cách để nổi tiếng, bài thơ được giới trẻ đón nhận một cách thích thú vì một chi tiết trước đó chưa bao giờ xảy ra, đó là:
Một chàng thanh niên Việt Nam du học có người yêu bên Pháp với tóc vàng mắt xanh… hai người yêu nhau và chính những cuộc chia tay trên ga vắng đã thi vị hóa câu chuyện để nó trở thành một mode mới trong đời sống thanh niên thời bấy giờ. Bài thơ như một trang sách mới cùng những con đường lạ lẫm bên trời Tây mở ra cho giới trẻ và đâu đó người đọc cảm thấy phần nào hả hê bù đắp lòng tự ái dân tộc đã bị mất mát khá nhiều dưới gót giày được gọi là khai hóa văn minh của thực dân Pháp.
***
Nói
chuyện với nhà thơ Cung Trầm Tưởng
Thuỵ Khuê
Bù em góp núi chung đồi,
Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ
…
Thơ Cung Trầm Tưởng. Phạm Duy phổ nhạc.
Thái Thanh diễn tả mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu. Câu thơ dội lên như
một gắn bó cổ âm với hiện tại, như một biệt sắc Cung Trầm Tưởng. Ðó là Cung
Trầm Tưởng những năm 55-60.
Cung Trầm Tưởng còn đúc kết niềm đau lưu vãng của người tù cải tạo. Tình yêu,
hiện sinh, tù đày trở thành những thực tại trong thơ Cung Trầm Tưởng và nhà
thơ, trong dịp ghé Paris
đã dành cho thính giả RFI hai buổi nói chuyện về hành trình thơ và đời của ông.
Trong
phần đầu, Cung Trầm Tưởng nói về thời kỳ Tình ca Paris trong hành trình sáng tạo của mình.
***
Thụy
Khuê: Thưa anh Cung Trầm Tưởng, trở lại Paris
sau gần nửa thế kỷ xa cách, anh thấy thế nào? Có bỡ ngỡ không?
Cung Trầm Tưởng: Trước khi đến Paris cách đây khoảng 47, 48 năm, tôi đã được
hấp thụ nền văn hóa Pháp bởi vì tôi xuất thân từ một trường trung học Pháp; cho
nên khi trở lại Paris, tôi cũng bỡ ngỡ nhưng không bỡ ngỡ như những người không
biết gì về quá trình văn hóa Pháp. Nhưng đồng thời tôi là người Việt Nam,
cho nên tôi vẫn nhìn Paris
từ chỗ đứng của một người Việt Nam.
Tôi không thấy mâu thuẫn giữa hai điều đó. Lẽ dĩ nhiên thời trẻ, bồng bột, tôi
chỉ nhìn Paris phảng phất qua bối cảnh một tình quê hương, tôi không dám nói là
tình yêu nước, từ xuất phát điểm đó, tôi có thể nói là tôi yêu Paris vô vàn.
Yêu Paris nào? Cảnh vật? Ðồng ý. Nhưng còn yêu Paris qua con người. Lúc ấy tôi mới trưởng
thành, đầy sự sống, tôi chỉ nhìn thấy tình yêu đôi lứa. Ðó là xuất xứ thầm kín
nhất, của những Chưa bao giờ buồn thế,
Mùa thu Paris…
TK: Những “Chưa Bao Giờ Buồn Thế” (tức là Tiễn Em), “Mùa Thu
Paris”, “Kiếp Sau” và “Khoác Kín” (tức là Chiều Ðông)
là những bài thơ của anh mà anh Phạm Duy đã phổ nhạc. Những tác phẩm này phần
nào đã ghi dấu một thời kỳ, thời kỳ mà những nhà thơ như Nguyên Sa, Cung Trầm
Tưởng…từ Pháp, đem theo tư tưởng Tây phương về như món quà tặng cho lớp trẻ.
Và những tư tưởng này đã gây dấu ấn sâu đậm trong đời họ?
CTT: Lúc làm những bài đó, tôi rất hồn nhiên, nhưng sau mất đi rồi, đặc biệt là
ở trong tù, khi tôi gặp những anh bạn, tuổi tác vào bậc đàn em tôi, xuất thân
từ Ðại Học Văn Khoa -Sàigòn- bảo rằng: “Anh đã du nhập vào Việt Nam một
kích thước về Tây phương khác hẳn với Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Mạnh Tường….
Chính chúng em đã yêu văn hóa Pháp chỉ vì những bài thơ Mùa Thu Paris, Chưa Bao
Giờ Buồn Thế” (mà anh Phạm Duy đã phổ nhạc thành bài Tiễn Em). Nếu Thụy
Khuê bảo rằng nó đánh dấu một giai đoạn hay một thời đại, thì có lẽ cũng đúng
thôi. Lúc đó Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Hoàng Anh Tuấn,… chúng tôi làm rất
hồn nhiên. Vậy nếu có gì tốt đẹp, và có gì không tốt đẹp, làm hư cả một thời
đại trong giai đoạn cực kỳ hung man của đất nước Việt Nam thì tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm.
TK: Thưa anh, những sáng tác đầu tiên của anh đã nẩy sinh trong những hoàn cảnh
nào?
CTT: Tôi là người Bắc vào Sàigòn. Tôi cũng đã có một khái niệm mơ hồ nào đó về
nước Pháp và đặc biệt là văn hóa Pháp. Sang Paris tôi không ngỡ ngàng lắm. Nhưng càng
sang Paris tôi
thấy rằng tôi không thể là người Pháp nổi. Tôi là người Việt Nam. Dù đã được hấp thụ nền giáo
dục, văn hóa Pháp từ lúc nhỏ. Ðiều đó, đối với tôi là một tiếng gọi vô cùng da
diết: Tôi phải tìm đủ mọi cách để trở về nguồn.
Khi sang Paris,
tôi gặp một thiếu nữ Pháp, gọi là cùng cung bậc tình cảm với mình. Ðó là một
chuyện có thể gọi là phối hợp, phối ngẫu rất hồn nhiên. Có thế thôi. Nhưng tôi
phải diễn tả bằng tiếng Việt.
Ðấy là những xuất xứ của những bài thơ đầu đời -nếu có thể được- của sự nghiệp
thi ca của tôi. Và tôi không ngờ rằng nó có những hệ lụy với cả một thời đại.
TK: Thời kỳ 50-60 là thời kỳ của Hiện Sinh. Và ảnh hưởng của Tượng Trưng, Siêu
Thực vẫn còn. Trong lúc anh làm thơ, anh cứ làm tự nhiên thôi hay là có sự tìm
hiểu về những lý thuyết mới của thi ca hoặc tìm hiểu những con đường mới của tư
tưởng lúc bấy giờ?
CTT: Có chứ. Tôi đã đọc thơ của của Mallarmé. Tôi rất sợ. Ðiều hớp hồn tôi nhất
là Eluard! Tôi đọc Whitman, tất cả…. Lúc học lycée tôi đã nghiến ngấu những
thứ như Sartre, Camus,… Chủ nghĩa Hiện Sinh của thời hậu chiến Âu Châu ngấm
vào tôi. Tôi hoàn toàn bị hớp hồn bởi chủ nghĩa Hiện Sinh. Lúc đó tôi chỉ phát
hiện được Sartre, nhất là L’être et le néant. Sau này tôi đọc Heidegger. Có thể
nói là tôi đã xuất phát từ chủ nghĩa Hiện Sinh. Ðấy là mặt lý luận. Nhưng khi
vào thơ, tôi phải hóa sinh nó, phải luyện kim nó, luyện đan nó. Lúc đó tôi
không hiểu, nhưng có thể là tôi đã mang vào thơ ảnh hưởng của tư trào Pháp quốc
và Âu Châu thời đó. Tôi mang vào thơ qua nẻo tình yêu đôi lứa. Tôi nghĩ, trong
đó cũng có ảnh hưởng gốc gác của tôi một chút. Tôi không theo đạo, nhưng tôi
tin vào một sức mạnh siêu hình. Có chủ nghĩa Hiện Sinh bởi lúc đó mình sống với
thời đại. Lúc đó, Tây học về mà tôi nói tôi không bị ảnh hưởng của Sartre,
Camus thì không đúng.
Tôi đã từng đi xem Huis Clos. Có cả những cô tóc vàng sợi nhỏ. Chúng tôi không
hư cấu 100%. Thơ của tôi không xuất phát từ le non-être mà từ l’anti-être, hay
gọi theo thuật ngữ thới đó, le néant là mặt nào đó của l’être. Tôi hoàn toàn hệ
lụy với những điều đó.
TK: Giữa Sartre và Camus anh gần ai hơn?
CTT: Sartre và Camus? Tôi nói thật, lúc đó tôi là ông cụ non. Tôi thích Sartre
vô cùng. Mà thích nhất là L’être et le néant chứ không phải La nausée. Tôi đọc
đến những cái cuối cùng của cuối cùng, tận cùng của tận cùng. Dù tôi học Bac
Math nhưng tôi rất thích philo. Ðọc L’être et le néant, tôi thấy ghê gớm quá.
Tôi thấy ông này có nhiều xảo thuật quá. Tôi biết chứ nhưng mình không lý luận
được. Cách hành văn của ông ấy ghê gớm quá, tôi sợ quá.
Lúc đó tôi phát hiện ra là style của Sartre bị ảnh hưởng văn phong của Marx.
Nhưng vấn đề là mình phải nhuyễn hóa để thành thơ Việt Nam. Tôi đã từng làm thơ Pháp, tôi
xé hết.
TK: Trở lại thời kỳ anh về nước, anh và các bạn anh đã có những đóng góp trong
việc làm mới lại thi ca Việt Nam.
Bây giờ, nhìn lại thời kỳ ấy, anh thấy những gì anh đã làm được, và những gì
anh chưa làm được?
CTT: Bây giờ xét lại tôi cũng có một đóng góp khiêm tốn, tích cực về việc làm
mới thơ Việt Nam
như Thụy Khuê vừa nói. Ðối với tôi, thơ là căn bản của ngôn ngữ, cũng như căn
bản của cuộc sống là hơi thở, oxy, khí trời. Tôi còn nhớ trong một buổi thảo
luận tại tòa soạn Sáng Tạo khoảng năm 1960, anh Thanh Tâm Tuyền hỏi tôi sao bây
giờ ông vẫn còn làm thơ lục bát. Tôi không muốn lý luận, tôi bảo rằng: Tôi thấy
thơ lục bát vẫn chưa hoàn tất, tôi muốn tiếp tục con đường ấy. Bây giờ nghĩ
lại, sau những lục bát của Nguyễn Du, Huy Cận, Bùi Giáng v.v… tôi cũng có một
đóng góp thật khiêm tốn. Và chưa xong.
Chưa
xong. Nhưng ô hỡi, thi ca còn mắc nợ lịch sử. Tôi có bổn phận phải trả món nợ
lịch sử đó. Vì thế năm 75, tôi quyết định ở lại! Tôi muốn ở lại. Ðó là một
quyết định với tất cả những hệ lụy của nó. Tôi nghĩ rằng nếu không có những năm
tạm gọi là gian truân, thống khổ… thì ngôn ngữ Cung Trầm Tưởng chưa tới độ mà
hôm nay tương đối tôi đã có thể thỏa hiệp với mình, mình đã đạt tới một mốc
điểm nào đó. Tôi sợ rằng nếu không có sự hội nhập, dấn thân nhầy nhụa vào lịch
sử để thăng hoa lên thì có thể nói rằng tôi đã tới ngõ cụt của thi ca. Tôi vẫn
thắc mắc ở một điểm: Thi ca là gì? Ðối với tôi, Thi ca là một ngữ sự. Không
giải quyết được ngữ sự đó thì xé tất cả đi.
***
Trong bài Tựa tập thơ Lời Viết Hai Tay, Ainsi parlait le poète, Cung Trầm Tưởng
viết:
“Ðời tù là phi lý của phi lý. Ðể đương đầu với nghịch cảnh sàm sỡ, trớ
trêu dị hợm, để không bị kéo xuống tầm tất yếu, ngã vào hư vô, để không tự tử,
người thơ tù phải học làm con vật siêu hình, đào tìm ý nghĩa sâu thẳm nhất, cơ
bản nhất, cụ thể nhất của sự việc trần gian.
Thơ là một đam mê, một lao về, một rượt đuổi khôn nguôi những cánh chim hồng
khó bắt, những câu hỏi xanh lớn hơn bất cứ trả lời nào.”
Những lời trên đây có thể xem như một tuyên ngôn của Cung Trầm Tưởng về thơ và
tù. Sau đây Cung Trầm Tưởng nói chuyện về cái phi lý của phi lý đã gầy dựng nên
thơ.
TK: Sau 75, tự ý anh quyết định ở lại. Ở lại và bị đi tù mười năm. Bây giờ nhìn
lại, anh thấy người ta “cho” anh đi tù vì anh là phi công hay vì anh
là nhà thơ?
CTT: Cả hai cái đó cụm lại. Phi công chỉ là mặt nổi của vấn đề. Cái mà người
cai tù của chúng tôi khó chịu nhất, họ ghét nhất, dị ứng nhất là văn học nghệ
thuật. Cái họ gọi là phản động của phản động.
Thì hai cái đó cộng lại và tôi có được mười năm tù. Tôi nói chữ có, bởi vì có
lẽ phải vậy thì mới chín muồi.
TK: Nhưng thơ anh, phần lớn là thơ tình, thì có gì mà phải hệ lụy, mà phải nặng
tội?
CTT: Ðúng. Nhưng chỉ lúc đầu thôi. Thật ra lúc Thụy Khuê đọc Mùa Thu Paris Chưa
Bao Giờ Buồn Thế, kể cả Khoác Kín… đã có một cố gắng mò mẫm tới một chân
trời, một ngôn ngữ khác. Tôi jeter một cái base là lề lối sống hiện sinh, mình
tự chọn cho mình một lối sống trong một bối cảnh tuyệt đối tự do. Như Sartre
nói, nếu tôi không lầm, Con người bắt buộc phải tự do. Và tôi mang hệ lụy đó. Ở
trong tù, lời đó vẫn còn giá trị. Vì thế trong bài Ainsi parlait le poète của
tôi, viết cho lần tái bản Lời Viết Hai Tay, tôi muốn, qua đó, đục phá những
cánh cửa để nhìn vào những phương trời như là kính vạn hoa. Kính vạn hoa ở đây
là vấn đề ngôn ngữ. Ðối với tôi, ngôn ngữ là máu mủ của tôi. Hơn thế nữa, đó là
phương tiện để giải thoát. Hơn thế nữa, đó là phương tiện mà nếu không có nó,
tôi đã phải tự tử.
TK: Trong mười năm tù, anh sáng tác trong những điều kiện như thế nào? Cả về
vật chất lẫn tinh thần? Vì có lần, anh cho biết, lúc đó anh gầy lắm, còn có
30kg?
CTT: Ðầu tiên về vật chất thì tôi thấy rằng tôi không có bút, không có giấy.
Bởi vì tôi không được quyền. Nếu tôi ăn cắp thì nguy hiểm lắm. Trong hoàn cảnh,
có thể nói là nghịch cảnh, như vậy, tôi phải sáng tác bằng cái đầu. Lúc ấy tôi
có nói rằng: “Làm thơ như chơi cờ tưởng.” Tôi chơi cờ với tôi. Tôi
chơi cờ với nàng thơ. Nhưng sức tôi có hạn. Cho nên một hôm có anh bạn bảo tôi
rằng:
– “Ông phải sống để làm thơ cho chúng tôi.”
Tôi trả lời:
– “Tôi có thể đảm nhận trách nhiệm ấy. Tôi phải làm thơ. Nhưng còn sống
thì tôi biết thế nào? Ðời tù như ngọn đèn yếu ớt, leo lắt trước cơn bão thổi.
Tôi cố làm thơ cho các ông. Nhưng tôi chỉ xin các ông một điều: Sức tôi có hạn,
trí nhớ tôi có hạn. Ai nhớ cho tôi?”
“Ông cứ làm thơ, chúng tôi sẽ có một bộ trí nhớ tập thể.”
Vì vậy trong Lời Viết Hai Tay, 50% là nhờ bộ nhớ tập thể đó. Tôi vô vàn cám ơn.
TK: Thưa anh, như vậy, các bạn nhớ hộ, rồi sau đó, mọi sự tiếp diễn ra sao?
CTT: Sau đó mình phải viết trên giấy trong một hoàn cảnh éo le là sau mười năm
tù, tôi bị tám năm quản chế. Lúc nào trước cửa nhà tôi cũng có một ông công an,
giả vờ làm thợ sửa xe đạp, phu xích lô. Nhưng không hiểu tại sao, lúc đó tôi mê
thơ hơn là tôi sợ. Tôi viết, sau đó có người mang tôi đến chỗ khác, người ta
nhớ hộ. Chính trong lúc đó tôi viết thêm hai tác phẩm cuối cùng. Bộ ba đó tôi
gọi là Tâm Sử Thi. Tôi viết lịch sử bằng tâm thức qua nẻo của thơ. Tôi phải làm
bằng lục bát vì không những đó là sở trường của tôi mà lại dễ nhớ. Và tôi đưa
cho một anh bạn, nguyên là tình báo quân đội. Và anh ấy có một “bộ
nhớ” tuyệt vời hơn cả bộ nhớ của computer/ordinateur. Anh thuộc làu. Anh
đã đem ra ngoài.
TK: Thưa anh, bài Nguyệt Thực mang những hình ảnh đẹp và có dấu ấn của đời tù,
anh đã làm trong bối cảnh như thế nào?
CTT: Ở một dẫy núi đá vôi, lạnh lắm của vùng Hòa Bình, có một cánh đồng chiêm.
Ban đêm anh em đói quá, không biết làm gì. Ở cánh đồng chiêm cách đó mấy trăm
mét, họ đang tát nước. Mình nghe. Mấy anh bạn bảo:
“Ông Cung Trầm Tưởng, ông có thấy cái này không? Ông làm hộ một bài
thơ.”
Thì tự nhiên mình thấy có nhiệm vụ. Lúc đó mình chỉ đọc một vài câu thôi, sau
đó phải hoàn chỉnh lại. Ðó là cảnh một đêm tù đói lắm, một số anh bạn lại bị
phù thủng. Vậy mình phải hư cấu để sống! Mình nói: Ðói quá mà lại không có thực
phẩm, ta ăn trăng!
Vài hàng về tác giả
Cung Trầm Tưởng tên thật là Cung Thức Cần sinh ngày 28 tháng 2 năm 1932 tại Hà Nội.
Năm 15
tuổi (1947), ông bắt đầu làm thơ, và có tập thơ đầu tay tên Sóng đầu dòng (chưa in).
Năm 1949, ông rời Hà Nội vào Sài Gòn, học tiếp trung học tại trường Chasseloup
Laubat (nay là Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn)
Năm
1952, sau một năm học đại học, ông sang Pháp du học tại Trường Kỹ sư không quân
ở Salon-de-Provence.
Mùa thu Paris
Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly
Năm
1957, ông tốt nghiệp trở về nước làm trong ngành không quân của Việt Nam Cộng
hòa. Trong năm này, hai bài thơ của ông là Mùa thu Pari và Vô đề (thơ trường
thiên) xuất hiện trong tuyển tập Đất đứng của nhóm Quan Điểm (gồm Mặc Đỗ, Vũ
Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng), và đã làm người đọc chú ý.
Năm 1958, ông đứng ra chủ trương tờ Văn nghệ mới và cộng tác thường xuyên cho
các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại, Nghệ thuật, Văn, Khởi hành…
Trong khoảng thời gian này, nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc một số bài thơ của
ông, đó là bài Mùa thu Paris, Chưa bao
giờ buồn thế (Phạm Duy đổi tên thành Tiễn em), Bên ni bên nớ, Khoác kín
(Phạm Duy đổi tên thành Chiều đông), Kiếp sau, Về đây…[1]
Năm 1962, ông sang Hoa Kỳ học về khí tượng, đậu Tiến sĩ khí tượng học tại Đại
học Saint Louis. Sau đó, ông trở về Sài Gòn tiếp tục làm trong ngành không quân
với cấp bực cuối cùng là Trung tá (1975).
Năm 1993, ông sang Hoa Kỳ định cư.
***
Tác phẩm của Cung Trầm Tưởng đã in:
Tình ca (Nhà xuất bản Công đàn, Sài Gòn, 1959)
Lục bát Cung Trầm Tưởng (Nhà xuất bản Con đuông, Sài Gòn, 1970)
Lời viết hai tay (Nhà xuất bản Imn, Bonn, 1994)
Bài ca níu quan tài (tác giả tự xuất bản, Minnesota, Hoa Kỳ, 2001)
***
Mặc Lâm, phóng viên RFA, đã viết về Cung Trầm Tưởng như sau:
Cung Trầm Tưởng là một nhà thơ rất quen thuộc từ đầu thập niên 60. Tên tuổi Ông
nhanh chóng tràn vào giới thanh niên trí thức thời bấy giờ khi ông từ Pháp trở
về Việt Nam
cùng không khí lãng mạn của phong trào thơ mới, lúc đó vẫn còn ảnh hưởng nhiều
đến thanh niên trí thức Việt Nam.
Ngay cái tên của ông cũng đã ấn tượng đối với nhiều người vì chất văn học rất
đậm trong mỗi chữ: Cung Trầm Tưởng.
“Tôi là Cung Trầm Tưởng vào khoảng 50-51 tôi du học tại Pháp..sau đó tôi thi đỗ
vào trường không quân của Pháp học chung với ông Nguyễn Xuân Vinh, ông Nguyễn
Ngọc Loan…Đến năm 1957 tôi trở lại Sài Gòn và phục vụ trong binh chủng không
quân cho đến ngày 30/4/1975 tức là được 23 năm.
Trong thời kỳ ở Pháp tôi làm thơ rất nhiều tập trung vào thơ lãng mạn, tình yêu
đôi lứa như Mùa Thu Paris, Chưa Bao Giờ
Buồn Thế được tôi sáng tác trong khoảng thời gian này. Có những bài thơ tôi
chưa từng đăng bất cứ báo nào thì bây giờ nó sẽ được tập trung lại trong toàn
tập thơ của tôi trong 60 năm mang tên Cung
Trầm Tưởng và Hành Trình Thơ, sẽ được xuất bản trong năm tới.”
Cung Trầm Tưởng vừa sơ lược cho chúng ta biết về đời sống sáng tác của ông mà trong đó phần quan trọng nhất làm nên một Cung Trầm Tưởng từ một bài thơ sống rất lâu trong trí nhớ nhiều người đó là tác phẩm Mùa Thu Paris. Tác phẩm này được đem tới người nghe qua tài năng của Phạm Duy khi ông phổ nó thành thơ và giới thiệu trên đài phát thanh Sài Gòn.
Ngôn ngữ trong bài thơ thật ra không phải mới lạ hay phá cách để nổi tiếng, bài thơ được giới trẻ đón nhận một cách thích thú vì một chi tiết trước đó chưa bao giờ xảy ra, đó là:
Một chàng thanh niên Việt Nam du học có người yêu bên Pháp với tóc vàng mắt xanh… hai người yêu nhau và chính những cuộc chia tay trên ga vắng đã thi vị hóa câu chuyện để nó trở thành một mode mới trong đời sống thanh niên thời bấy giờ. Bài thơ như một trang sách mới cùng những con đường lạ lẫm bên trời Tây mở ra cho giới trẻ và đâu đó người đọc cảm thấy phần nào hả hê bù đắp lòng tự ái dân tộc đã bị mất mát khá nhiều dưới gót giày được gọi là khai hóa văn minh của thực dân Pháp.
***
Nói
chuyện với nhà thơ Cung Trầm Tưởng
Thuỵ Khuê
Bù em góp núi chung đồi,
Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ
…
Thơ Cung Trầm Tưởng. Phạm Duy phổ nhạc.
Thái Thanh diễn tả mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu. Câu thơ dội lên như
một gắn bó cổ âm với hiện tại, như một biệt sắc Cung Trầm Tưởng. Ðó là Cung
Trầm Tưởng những năm 55-60.
Cung Trầm Tưởng còn đúc kết niềm đau lưu vãng của người tù cải tạo. Tình yêu,
hiện sinh, tù đày trở thành những thực tại trong thơ Cung Trầm Tưởng và nhà
thơ, trong dịp ghé Paris
đã dành cho thính giả RFI hai buổi nói chuyện về hành trình thơ và đời của ông.
Trong
phần đầu, Cung Trầm Tưởng nói về thời kỳ Tình ca Paris trong hành trình sáng tạo của mình.
***
Thụy
Khuê: Thưa anh Cung Trầm Tưởng, trở lại Paris
sau gần nửa thế kỷ xa cách, anh thấy thế nào? Có bỡ ngỡ không?
Cung Trầm Tưởng: Trước khi đến Paris cách đây khoảng 47, 48 năm, tôi đã được
hấp thụ nền văn hóa Pháp bởi vì tôi xuất thân từ một trường trung học Pháp; cho
nên khi trở lại Paris, tôi cũng bỡ ngỡ nhưng không bỡ ngỡ như những người không
biết gì về quá trình văn hóa Pháp. Nhưng đồng thời tôi là người Việt Nam,
cho nên tôi vẫn nhìn Paris
từ chỗ đứng của một người Việt Nam.
Tôi không thấy mâu thuẫn giữa hai điều đó. Lẽ dĩ nhiên thời trẻ, bồng bột, tôi
chỉ nhìn Paris phảng phất qua bối cảnh một tình quê hương, tôi không dám nói là
tình yêu nước, từ xuất phát điểm đó, tôi có thể nói là tôi yêu Paris vô vàn.
Yêu Paris nào? Cảnh vật? Ðồng ý. Nhưng còn yêu Paris qua con người. Lúc ấy tôi mới trưởng
thành, đầy sự sống, tôi chỉ nhìn thấy tình yêu đôi lứa. Ðó là xuất xứ thầm kín
nhất, của những Chưa bao giờ buồn thế,
Mùa thu Paris…
TK: Những “Chưa Bao Giờ Buồn Thế” (tức là Tiễn Em), “Mùa Thu
Paris”, “Kiếp Sau” và “Khoác Kín” (tức là Chiều Ðông)
là những bài thơ của anh mà anh Phạm Duy đã phổ nhạc. Những tác phẩm này phần
nào đã ghi dấu một thời kỳ, thời kỳ mà những nhà thơ như Nguyên Sa, Cung Trầm
Tưởng…từ Pháp, đem theo tư tưởng Tây phương về như món quà tặng cho lớp trẻ.
Và những tư tưởng này đã gây dấu ấn sâu đậm trong đời họ?
CTT: Lúc làm những bài đó, tôi rất hồn nhiên, nhưng sau mất đi rồi, đặc biệt là
ở trong tù, khi tôi gặp những anh bạn, tuổi tác vào bậc đàn em tôi, xuất thân
từ Ðại Học Văn Khoa -Sàigòn- bảo rằng: “Anh đã du nhập vào Việt Nam một
kích thước về Tây phương khác hẳn với Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Mạnh Tường….
Chính chúng em đã yêu văn hóa Pháp chỉ vì những bài thơ Mùa Thu Paris, Chưa Bao
Giờ Buồn Thế” (mà anh Phạm Duy đã phổ nhạc thành bài Tiễn Em). Nếu Thụy
Khuê bảo rằng nó đánh dấu một giai đoạn hay một thời đại, thì có lẽ cũng đúng
thôi. Lúc đó Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Hoàng Anh Tuấn,… chúng tôi làm rất
hồn nhiên. Vậy nếu có gì tốt đẹp, và có gì không tốt đẹp, làm hư cả một thời
đại trong giai đoạn cực kỳ hung man của đất nước Việt Nam thì tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm.
TK: Thưa anh, những sáng tác đầu tiên của anh đã nẩy sinh trong những hoàn cảnh
nào?
CTT: Tôi là người Bắc vào Sàigòn. Tôi cũng đã có một khái niệm mơ hồ nào đó về
nước Pháp và đặc biệt là văn hóa Pháp. Sang Paris tôi không ngỡ ngàng lắm. Nhưng càng
sang Paris tôi
thấy rằng tôi không thể là người Pháp nổi. Tôi là người Việt Nam. Dù đã được hấp thụ nền giáo
dục, văn hóa Pháp từ lúc nhỏ. Ðiều đó, đối với tôi là một tiếng gọi vô cùng da
diết: Tôi phải tìm đủ mọi cách để trở về nguồn.
Khi sang Paris,
tôi gặp một thiếu nữ Pháp, gọi là cùng cung bậc tình cảm với mình. Ðó là một
chuyện có thể gọi là phối hợp, phối ngẫu rất hồn nhiên. Có thế thôi. Nhưng tôi
phải diễn tả bằng tiếng Việt.
Ðấy là những xuất xứ của những bài thơ đầu đời -nếu có thể được- của sự nghiệp
thi ca của tôi. Và tôi không ngờ rằng nó có những hệ lụy với cả một thời đại.
TK: Thời kỳ 50-60 là thời kỳ của Hiện Sinh. Và ảnh hưởng của Tượng Trưng, Siêu
Thực vẫn còn. Trong lúc anh làm thơ, anh cứ làm tự nhiên thôi hay là có sự tìm
hiểu về những lý thuyết mới của thi ca hoặc tìm hiểu những con đường mới của tư
tưởng lúc bấy giờ?
CTT: Có chứ. Tôi đã đọc thơ của của Mallarmé. Tôi rất sợ. Ðiều hớp hồn tôi nhất
là Eluard! Tôi đọc Whitman, tất cả…. Lúc học lycée tôi đã nghiến ngấu những
thứ như Sartre, Camus,… Chủ nghĩa Hiện Sinh của thời hậu chiến Âu Châu ngấm
vào tôi. Tôi hoàn toàn bị hớp hồn bởi chủ nghĩa Hiện Sinh. Lúc đó tôi chỉ phát
hiện được Sartre, nhất là L’être et le néant. Sau này tôi đọc Heidegger. Có thể
nói là tôi đã xuất phát từ chủ nghĩa Hiện Sinh. Ðấy là mặt lý luận. Nhưng khi
vào thơ, tôi phải hóa sinh nó, phải luyện kim nó, luyện đan nó. Lúc đó tôi
không hiểu, nhưng có thể là tôi đã mang vào thơ ảnh hưởng của tư trào Pháp quốc
và Âu Châu thời đó. Tôi mang vào thơ qua nẻo tình yêu đôi lứa. Tôi nghĩ, trong
đó cũng có ảnh hưởng gốc gác của tôi một chút. Tôi không theo đạo, nhưng tôi
tin vào một sức mạnh siêu hình. Có chủ nghĩa Hiện Sinh bởi lúc đó mình sống với
thời đại. Lúc đó, Tây học về mà tôi nói tôi không bị ảnh hưởng của Sartre,
Camus thì không đúng.
Tôi đã từng đi xem Huis Clos. Có cả những cô tóc vàng sợi nhỏ. Chúng tôi không
hư cấu 100%. Thơ của tôi không xuất phát từ le non-être mà từ l’anti-être, hay
gọi theo thuật ngữ thới đó, le néant là mặt nào đó của l’être. Tôi hoàn toàn hệ
lụy với những điều đó.
TK: Giữa Sartre và Camus anh gần ai hơn?
CTT: Sartre và Camus? Tôi nói thật, lúc đó tôi là ông cụ non. Tôi thích Sartre
vô cùng. Mà thích nhất là L’être et le néant chứ không phải La nausée. Tôi đọc
đến những cái cuối cùng của cuối cùng, tận cùng của tận cùng. Dù tôi học Bac
Math nhưng tôi rất thích philo. Ðọc L’être et le néant, tôi thấy ghê gớm quá.
Tôi thấy ông này có nhiều xảo thuật quá. Tôi biết chứ nhưng mình không lý luận
được. Cách hành văn của ông ấy ghê gớm quá, tôi sợ quá.
Lúc đó tôi phát hiện ra là style của Sartre bị ảnh hưởng văn phong của Marx.
Nhưng vấn đề là mình phải nhuyễn hóa để thành thơ Việt Nam. Tôi đã từng làm thơ Pháp, tôi
xé hết.
TK: Trở lại thời kỳ anh về nước, anh và các bạn anh đã có những đóng góp trong
việc làm mới lại thi ca Việt Nam.
Bây giờ, nhìn lại thời kỳ ấy, anh thấy những gì anh đã làm được, và những gì
anh chưa làm được?
CTT: Bây giờ xét lại tôi cũng có một đóng góp khiêm tốn, tích cực về việc làm
mới thơ Việt Nam
như Thụy Khuê vừa nói. Ðối với tôi, thơ là căn bản của ngôn ngữ, cũng như căn
bản của cuộc sống là hơi thở, oxy, khí trời. Tôi còn nhớ trong một buổi thảo
luận tại tòa soạn Sáng Tạo khoảng năm 1960, anh Thanh Tâm Tuyền hỏi tôi sao bây
giờ ông vẫn còn làm thơ lục bát. Tôi không muốn lý luận, tôi bảo rằng: Tôi thấy
thơ lục bát vẫn chưa hoàn tất, tôi muốn tiếp tục con đường ấy. Bây giờ nghĩ
lại, sau những lục bát của Nguyễn Du, Huy Cận, Bùi Giáng v.v… tôi cũng có một
đóng góp thật khiêm tốn. Và chưa xong.
Chưa
xong. Nhưng ô hỡi, thi ca còn mắc nợ lịch sử. Tôi có bổn phận phải trả món nợ
lịch sử đó. Vì thế năm 75, tôi quyết định ở lại! Tôi muốn ở lại. Ðó là một
quyết định với tất cả những hệ lụy của nó. Tôi nghĩ rằng nếu không có những năm
tạm gọi là gian truân, thống khổ… thì ngôn ngữ Cung Trầm Tưởng chưa tới độ mà
hôm nay tương đối tôi đã có thể thỏa hiệp với mình, mình đã đạt tới một mốc
điểm nào đó. Tôi sợ rằng nếu không có sự hội nhập, dấn thân nhầy nhụa vào lịch
sử để thăng hoa lên thì có thể nói rằng tôi đã tới ngõ cụt của thi ca. Tôi vẫn
thắc mắc ở một điểm: Thi ca là gì? Ðối với tôi, Thi ca là một ngữ sự. Không
giải quyết được ngữ sự đó thì xé tất cả đi.
***
Trong bài Tựa tập thơ Lời Viết Hai Tay, Ainsi parlait le poète, Cung Trầm Tưởng
viết:
“Ðời tù là phi lý của phi lý. Ðể đương đầu với nghịch cảnh sàm sỡ, trớ
trêu dị hợm, để không bị kéo xuống tầm tất yếu, ngã vào hư vô, để không tự tử,
người thơ tù phải học làm con vật siêu hình, đào tìm ý nghĩa sâu thẳm nhất, cơ
bản nhất, cụ thể nhất của sự việc trần gian.
Thơ là một đam mê, một lao về, một rượt đuổi khôn nguôi những cánh chim hồng
khó bắt, những câu hỏi xanh lớn hơn bất cứ trả lời nào.”
Những lời trên đây có thể xem như một tuyên ngôn của Cung Trầm Tưởng về thơ và
tù. Sau đây Cung Trầm Tưởng nói chuyện về cái phi lý của phi lý đã gầy dựng nên
thơ.
TK: Sau 75, tự ý anh quyết định ở lại. Ở lại và bị đi tù mười năm. Bây giờ nhìn
lại, anh thấy người ta “cho” anh đi tù vì anh là phi công hay vì anh
là nhà thơ?
CTT: Cả hai cái đó cụm lại. Phi công chỉ là mặt nổi của vấn đề. Cái mà người
cai tù của chúng tôi khó chịu nhất, họ ghét nhất, dị ứng nhất là văn học nghệ
thuật. Cái họ gọi là phản động của phản động.
Thì hai cái đó cộng lại và tôi có được mười năm tù. Tôi nói chữ có, bởi vì có
lẽ phải vậy thì mới chín muồi.
TK: Nhưng thơ anh, phần lớn là thơ tình, thì có gì mà phải hệ lụy, mà phải nặng
tội?
CTT: Ðúng. Nhưng chỉ lúc đầu thôi. Thật ra lúc Thụy Khuê đọc Mùa Thu Paris Chưa
Bao Giờ Buồn Thế, kể cả Khoác Kín… đã có một cố gắng mò mẫm tới một chân
trời, một ngôn ngữ khác. Tôi jeter một cái base là lề lối sống hiện sinh, mình
tự chọn cho mình một lối sống trong một bối cảnh tuyệt đối tự do. Như Sartre
nói, nếu tôi không lầm, Con người bắt buộc phải tự do. Và tôi mang hệ lụy đó. Ở
trong tù, lời đó vẫn còn giá trị. Vì thế trong bài Ainsi parlait le poète của
tôi, viết cho lần tái bản Lời Viết Hai Tay, tôi muốn, qua đó, đục phá những
cánh cửa để nhìn vào những phương trời như là kính vạn hoa. Kính vạn hoa ở đây
là vấn đề ngôn ngữ. Ðối với tôi, ngôn ngữ là máu mủ của tôi. Hơn thế nữa, đó là
phương tiện để giải thoát. Hơn thế nữa, đó là phương tiện mà nếu không có nó,
tôi đã phải tự tử.
TK: Trong mười năm tù, anh sáng tác trong những điều kiện như thế nào? Cả về
vật chất lẫn tinh thần? Vì có lần, anh cho biết, lúc đó anh gầy lắm, còn có
30kg?
CTT: Ðầu tiên về vật chất thì tôi thấy rằng tôi không có bút, không có giấy.
Bởi vì tôi không được quyền. Nếu tôi ăn cắp thì nguy hiểm lắm. Trong hoàn cảnh,
có thể nói là nghịch cảnh, như vậy, tôi phải sáng tác bằng cái đầu. Lúc ấy tôi
có nói rằng: “Làm thơ như chơi cờ tưởng.” Tôi chơi cờ với tôi. Tôi
chơi cờ với nàng thơ. Nhưng sức tôi có hạn. Cho nên một hôm có anh bạn bảo tôi
rằng:
– “Ông phải sống để làm thơ cho chúng tôi.”
Tôi trả lời:
– “Tôi có thể đảm nhận trách nhiệm ấy. Tôi phải làm thơ. Nhưng còn sống
thì tôi biết thế nào? Ðời tù như ngọn đèn yếu ớt, leo lắt trước cơn bão thổi.
Tôi cố làm thơ cho các ông. Nhưng tôi chỉ xin các ông một điều: Sức tôi có hạn,
trí nhớ tôi có hạn. Ai nhớ cho tôi?”
“Ông cứ làm thơ, chúng tôi sẽ có một bộ trí nhớ tập thể.”
Vì vậy trong Lời Viết Hai Tay, 50% là nhờ bộ nhớ tập thể đó. Tôi vô vàn cám ơn.
TK: Thưa anh, như vậy, các bạn nhớ hộ, rồi sau đó, mọi sự tiếp diễn ra sao?
CTT: Sau đó mình phải viết trên giấy trong một hoàn cảnh éo le là sau mười năm
tù, tôi bị tám năm quản chế. Lúc nào trước cửa nhà tôi cũng có một ông công an,
giả vờ làm thợ sửa xe đạp, phu xích lô. Nhưng không hiểu tại sao, lúc đó tôi mê
thơ hơn là tôi sợ. Tôi viết, sau đó có người mang tôi đến chỗ khác, người ta
nhớ hộ. Chính trong lúc đó tôi viết thêm hai tác phẩm cuối cùng. Bộ ba đó tôi
gọi là Tâm Sử Thi. Tôi viết lịch sử bằng tâm thức qua nẻo của thơ. Tôi phải làm
bằng lục bát vì không những đó là sở trường của tôi mà lại dễ nhớ. Và tôi đưa
cho một anh bạn, nguyên là tình báo quân đội. Và anh ấy có một “bộ
nhớ” tuyệt vời hơn cả bộ nhớ của computer/ordinateur. Anh thuộc làu. Anh
đã đem ra ngoài.
TK: Thưa anh, bài Nguyệt Thực mang những hình ảnh đẹp và có dấu ấn của đời tù,
anh đã làm trong bối cảnh như thế nào?
CTT: Ở một dẫy núi đá vôi, lạnh lắm của vùng Hòa Bình, có một cánh đồng chiêm.
Ban đêm anh em đói quá, không biết làm gì. Ở cánh đồng chiêm cách đó mấy trăm
mét, họ đang tát nước. Mình nghe. Mấy anh bạn bảo:
“Ông Cung Trầm Tưởng, ông có thấy cái này không? Ông làm hộ một bài
thơ.”
Thì tự nhiên mình thấy có nhiệm vụ. Lúc đó mình chỉ đọc một vài câu thôi, sau
đó phải hoàn chỉnh lại. Ðó là cảnh một đêm tù đói lắm, một số anh bạn lại bị
phù thủng. Vậy mình phải hư cấu để sống! Mình nói: Ðói quá mà lại không có thực
phẩm, ta ăn trăng!
Ðây
là bài Nguyệt Thực:
Tiếng ai tát
nước đồng đêm
Vơi vơi nước cạn, thêm thêm sóng lòng
Ánh trăng quện nước gầu sòng
Trời loang loãng cháo dưới dòng sao Tâm
…
Lúc đó chỉ nhìn thấy cái gì sền sệt: Cháo. Nhìn trăng chỉ thấy cháo.
Phản xạ!
…
Gầu ai cứ tát
nước vơi
Men trăng đầy hũ, ta mời ta tôi
Ngày xưa uống rượu hương hồi
Ngày nay loãng máu, ta bồi dưỡng trăng.
TK: Thưa anh, có phải kinh nghiệm tù đầy đã làm anh thay đổi quan niệm thơ của
anh? Từ thời kỳ đầu, thơ có đối tượng là tình yêu, và bây giờ, thơ phải dính
liền với lịch sử, thơ anh dấn thân hơn?
CTT: Tất nhiên thôi. Ở lại, tôi phát giác ra thêm một kích thước gọi là lịch
sử. Nhưng ô hỡi, thơ đâu phải chỉ là lịch sử. Cho nên kể cả ngay trong Lời Viết
Hai Tay đã có những cố gắng mò mẫm để đi ra khỏi cái mà tôi gọi là “ngục
tù lịch sử”. Lịch sử là gì? Lịch sử là cái gì thật là ngu xuẩn, con người
tạo ra để nhốt giam chính mình! Nhưng tôi cũng khá hiểu được là: “Cái này
không được”, phải tìm ra cái khác. Vì thế cho nên tôi có viết rằng: cơ
bản, thơ vượt lịch sử.
Thơ mà không vượt lịch sử thì chưa phải là thơ. Phải nhầy nhụa trong lịch sử!
Nếu nhân loại, hay đặc biệt dân tộc Việt Nam phải đau khổ thì người thi sĩ
phải đau khổ cùng với dân tộc. Ở tù! Nhà tù ấy là nhà tù của lịch sử chứ không
phải của chế độ. Nhưng lịch sử đâu có phải là cứu cánh của nghệ thuật. Ðây tôi
chỉ nói về nghệ thuật thôi, tất nhiên còn nhiều vấn đề khác nữa. Lịch sử nhiều
khi nó là cái bêtise. Rất buồn là con người tạo ra lịch sử để rồi bị giam tù
bởi lịch sử. Tôi đủ thông minh để vượt qua. Tôi không có niềm tin về siêu hình
tôn giáo, tôi phải dùng con đường nghệ thuật mà trong đó tôi thấy, là thơ.
Thơ là phương tiện để tôi tự giải thoát tôi. Lúc đó tôi đã ý thức được nhờ kích
thước lịch sử của triết học. Tôi không sợ Sartre bằng Heidegger. Về cái
historicité, Sartre chỉ nói một câu theo kiểu mẫu văn hoa của Pháp là: L’homme
est un animal historique. Nhưng Heidegger nói về cái temporité. Tôi thấy thơ
bắt buộc phải như vậy. Nhưng cuối đời, Heideger không tìm ra ngôn ngữ. Tôi thử
dùng ngôn ngữ thơ để nói cái tính cách vượt qua lịch sử. Có thế thôi. Bởi rằng
thực ra, lịch sử là gì? Lịch sử là trạm quá cảnh đóng con dấu máu đỏ của tang
thương trên quyển hộ chiếu của thi lữ khách. Xong rồi lại lên đường.
TK: Vì thế mà ra nước ngoài anh vẫn tiếp tục làm thơ, tức là tiếp tục dấn thân
theo một nghĩa khác?
CTT: Vẫn có với tôi một tiếng gọi: Tôi phải tiếp tục lên đường. Và muốn như
vậy, tôi phải tìm về ngọn nguồn của ngọn nguồn. Là Paris. Tôi phải trở lại. Tôi
đã tự nói với tôi ngay từ năm 1976, khi tôi vào tù, rằng tôi sẽ trở lại. Và đến
hôm nay, 1999, tức là 33 năm sau, tôi đã đạt được ý nguyện đó. Và nếu xét từ
bối cảnh đáy địa ngục đó, hôm nay ngồi đây nói chuyện với Thụy Khuê. Ðó là một
phép lạ.
TK: Rút cục môi trường ngục tù đã đem lại những gì cho thơ anh?
CTT: Thơ tù đối với tôi là một quá độ cần thiết phải có, không có cái đó thì
không tiếp tục nổi. Bởi sau cuộc rong chơi của tình yêu lứa đôi, chủ nghĩa hiện
sinh… mình thấy đó vẫn chỉ là những cuộc rong chơi. Nhưng nếu dân tộc bị rớm
máu, người thi sĩ phải bị đổ máu.
Tôi cám ơn vô cùng lịch sử đã giăng cho tôi cái bẫy là tôi phải mười năm ở tù,
để thơ tôi có những kích thước khác, có hệ lụy và có trách nhiệm
TK: Kinh nghiệm của anh đã khó khăn, anh có nghĩ rằng những ngày sắp tới, người
làm văn, làm thơ có thể vượt qua được những khó khăn hiện nay không?
CTT: Khó khăn hơn nhiều! Tôi nghĩ rằng muốn đạt tới địa đàng phải đi tới từng
thứ chín của địa ngục rồi làm cái xẹt xuyên ánh tinh cầu. Ngộ. Ngộ trong nghịch
cảnh của lịch sử. Của thời gian. Bên này
nó ru ngủ ta bằng đủ thứ, dễ dãi quá. Thừa mứa quá. Tôi không dám nói là tôi
thù ghét, nhưng tôi cảm thấy rằng con người tôi dị ứng với cái đó. Thành ra,
thơ trong tù, khi tôi nói về vấn đề muốn trở lại cái nôi thứ hai của tôi là nếp
sống, lối suy nghĩ của Tây phương, là tôi muốn nhìn qua khung cảnh Paris. Dù rằng tôi đã đi
học cả Mỹ nữa. Tôi vẫn si mê Paris.
Nhưng tôi đến Paris
không phải vì cô đầm Michèle. Tôi đến Paris
qua nẻo đường của diaspora vietnamien à Paris
một thuở nào, và vẫn muốn tiếp tục con đường đó.
TK: Thưa anh, câu chuyện đã dài, xin anh một lời kết trong ý nghĩa thơ Cung
Trầm Tưởng.
CTT: Thơ phải có quan hệ máu mủ, quan hệ ruột thịt với lịch sử. Nhưng xong rồi,
mình phải lên đường. Siêu hình xuất phát từ thân phận. Thân phận phủ đầy sử
tính, đúng không? Ô hỡi, sử tính là gì? Là khốn khổ. Là nhầy nhụa. Là đau
thương. Và lịch sử hiện đại tù đầy. Phải qua nẻo đó thì may ra thơ mới thoát
được. Không phải là thơ anh với em, lứa đôi.
Người thi sĩ phải đảm nhận cái đau khổ của dân tộc mình. Qua ngôn ngữ. Tạo ra
ngôn ngữ. Ngôn ngữ của đau khổ. Thành ra tôi có làm bốn câu thơ -Tôi luôn luôn
rất dại. Tôi luôn luôn bị lừa. Nhưng phải bị lừa thì mới biết được là bị lừa-
Cuối cùng là bốn câu thơ lục bát:
Mai sau thịt
thắm da mềm
Cái yêu khác trước cái nhìn khác xưa
Cái tin vô cớ xin chừa
Sống sao cho xứng lũy thừa thương đau
Tôi phải tích cực chứ. Tôi muốn có một câu kết, không phải đi đến chỗ nowhere.
Tất cả những sự tạm gọi là hy sinh là để hái gặt được một mùa: Mùa gặt mười
năm. Tất cả là một récolte, mùa gặt mà người ta đọc. Mà đọc là gì? Theo tiếng
latin, grec là đi cấy một mùa màng mà cái thằng poète nó trồng hộ anh.
TK: Xin cám ơn anh Cung Trầm Tưởng.
Ðây là bài Nguyệt Thực:
Tiếng ai tát nước đồng đêm
Vơi vơi nước cạn, thêm thêm sóng lòng
Ánh trăng quện nước gầu sòng
Trời loang loãng cháo dưới dòng sao Tâm
…
Lúc đó chỉ nhìn thấy cái gì sền sệt: Cháo. Nhìn trăng chỉ thấy cháo. Phản xạ!
…
Gầu ai cứ tát nước vơi
Men trăng đầy hũ, ta mời ta tôi
Ngày xưa uống rượu hương hồi
Ngày nay loãng máu, ta bồi dưỡng trăng.
TK: Thưa anh, có phải kinh nghiệm tù đầy đã làm anh thay đổi quan niệm thơ của anh? Từ thời kỳ đầu, thơ có đối tượng là tình yêu, và bây giờ, thơ phải dính liền với lịch sử, thơ anh dấn thân hơn?
CTT: Tất nhiên thôi. Ở lại, tôi phát giác ra thêm một kích thước gọi là lịch sử. Nhưng ô hỡi, thơ đâu phải chỉ là lịch sử. Cho nên kể cả ngay trong Lời Viết Hai Tay đã có những cố gắng mò mẫm để đi ra khỏi cái mà tôi gọi là “ngục tù lịch sử”. Lịch sử là gì? Lịch sử là cái gì thật là ngu xuẩn, con người tạo ra để nhốt giam chính mình! Nhưng tôi cũng khá hiểu được là: “Cái này không được”, phải tìm ra cái khác. Vì thế cho nên tôi có viết rằng: cơ bản, thơ vượt lịch sử.
Thơ mà không vượt lịch sử thì chưa phải là thơ. Phải nhầy nhụa trong lịch sử! Nếu nhân loại, hay đặc biệt dân tộc Việt Nam phải đau khổ thì người thi sĩ phải đau khổ cùng với dân tộc. Ở tù! Nhà tù ấy là nhà tù của lịch sử chứ không phải của chế độ. Nhưng lịch sử đâu có phải là cứu cánh của nghệ thuật. Ðây tôi chỉ nói về nghệ thuật thôi, tất nhiên còn nhiều vấn đề khác nữa. Lịch sử nhiều khi nó là cái bêtise. Rất buồn là con người tạo ra lịch sử để rồi bị giam tù bởi lịch sử. Tôi đủ thông minh để vượt qua. Tôi không có niềm tin về siêu hình tôn giáo, tôi phải dùng con đường nghệ thuật mà trong đó tôi thấy, là thơ.
Thơ là phương tiện để tôi tự giải thoát tôi. Lúc đó tôi đã ý thức được nhờ kích thước lịch sử của triết học. Tôi không sợ Sartre bằng Heidegger. Về cái historicité, Sartre chỉ nói một câu theo kiểu mẫu văn hoa của Pháp là: L’homme est un animal historique. Nhưng Heidegger nói về cái temporité. Tôi thấy thơ bắt buộc phải như vậy. Nhưng cuối đời, Heideger không tìm ra ngôn ngữ. Tôi thử dùng ngôn ngữ thơ để nói cái tính cách vượt qua lịch sử. Có thế thôi. Bởi rằng thực ra, lịch sử là gì? Lịch sử là trạm quá cảnh đóng con dấu máu đỏ của tang thương trên quyển hộ chiếu của thi lữ khách. Xong rồi lại lên đường.
TK: Vì thế mà ra nước ngoài anh vẫn tiếp tục làm thơ, tức là tiếp tục dấn thân theo một nghĩa khác?
CTT: Vẫn có với tôi một tiếng gọi: Tôi phải tiếp tục lên đường. Và muốn như vậy, tôi phải tìm về ngọn nguồn của ngọn nguồn. Là Paris. Tôi phải trở lại. Tôi đã tự nói với tôi ngay từ năm 1976, khi tôi vào tù, rằng tôi sẽ trở lại. Và đến hôm nay, 1999, tức là 33 năm sau, tôi đã đạt được ý nguyện đó. Và nếu xét từ bối cảnh đáy địa ngục đó, hôm nay ngồi đây nói chuyện với Thụy Khuê. Ðó là một phép lạ.
TK: Rút cục môi trường ngục tù đã đem lại những gì cho thơ anh?
CTT: Thơ tù đối với tôi là một quá độ cần thiết phải có, không có cái đó thì không tiếp tục nổi. Bởi sau cuộc rong chơi của tình yêu lứa đôi, chủ nghĩa hiện sinh… mình thấy đó vẫn chỉ là những cuộc rong chơi. Nhưng nếu dân tộc bị rớm máu, người thi sĩ phải bị đổ máu.
Tôi cám ơn vô cùng lịch sử đã giăng cho tôi cái bẫy là tôi phải mười năm ở tù, để thơ tôi có những kích thước khác, có hệ lụy và có trách nhiệm
TK: Kinh nghiệm của anh đã khó khăn, anh có nghĩ rằng những ngày sắp tới, người làm văn, làm thơ có thể vượt qua được những khó khăn hiện nay không?
CTT: Khó khăn hơn nhiều! Tôi nghĩ rằng muốn đạt tới địa đàng phải đi tới từng thứ chín của địa ngục rồi làm cái xẹt xuyên ánh tinh cầu. Ngộ. Ngộ trong nghịch cảnh của lịch sử. Của thời gian. Bên này nó ru ngủ ta bằng đủ thứ, dễ dãi quá. Thừa mứa quá. Tôi không dám nói là tôi thù ghét, nhưng tôi cảm thấy rằng con người tôi dị ứng với cái đó. Thành ra, thơ trong tù, khi tôi nói về vấn đề muốn trở lại cái nôi thứ hai của tôi là nếp sống, lối suy nghĩ của Tây phương, là tôi muốn nhìn qua khung cảnh Paris. Dù rằng tôi đã đi học cả Mỹ nữa. Tôi vẫn si mê Paris.
Nhưng tôi đến Paris không phải vì cô đầm Michèle. Tôi đến Paris qua nẻo đường của diaspora vietnamien à Paris một thuở nào, và vẫn muốn tiếp tục con đường đó.
TK: Thưa anh, câu chuyện đã dài, xin anh một lời kết trong ý nghĩa thơ Cung Trầm Tưởng.
CTT: Thơ phải có quan hệ máu mủ, quan hệ ruột thịt với lịch sử. Nhưng xong rồi, mình phải lên đường. Siêu hình xuất phát từ thân phận. Thân phận phủ đầy sử tính, đúng không? Ô hỡi, sử tính là gì? Là khốn khổ. Là nhầy nhụa. Là đau thương. Và lịch sử hiện đại tù đầy. Phải qua nẻo đó thì may ra thơ mới thoát được. Không phải là thơ anh với em, lứa đôi.
Người thi sĩ phải đảm nhận cái đau khổ của dân tộc mình. Qua ngôn ngữ. Tạo ra ngôn ngữ. Ngôn ngữ của đau khổ. Thành ra tôi có làm bốn câu thơ -Tôi luôn luôn rất dại. Tôi luôn luôn bị lừa. Nhưng phải bị lừa thì mới biết được là bị lừa- Cuối cùng là bốn câu thơ lục bát:
Mai sau thịt thắm da mềm
Cái yêu khác trước cái nhìn khác xưa
Cái tin vô cớ xin chừa
Sống sao cho xứng lũy thừa thương đau
Tôi phải tích cực chứ. Tôi muốn có một câu kết, không phải đi đến chỗ nowhere. Tất cả những sự tạm gọi là hy sinh là để hái gặt được một mùa: Mùa gặt mười năm. Tất cả là một récolte, mùa gặt mà người ta đọc. Mà đọc là gì? Theo tiếng latin, grec là đi cấy một mùa màng mà cái thằng poète nó trồng hộ anh.
TK: Xin cám ơn anh Cung Trầm Tưởng.